ĐỊA CHẤT
Trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc phân bố 6 nhóm đá khác nhau:
Các đá biến chất cao: Phân
bố ở khu vực bắc Hương Canh, trung tâm các huyện Lập Thạch, Tam Dương
tạo thành dải kéo dài theo hướng tây bắc - đông nam, gồm các đá gneis
giàu plagioclas, biotit, silimanit, đôi chỗ gặp quartzit chứa mica hệ
tầng Chiêm Hóa (PR 3 - € ch).
Các đá trầm tích lục nguyên màu đỏ:
Phân bố ở phía đông nam Tam Đảo, vùng Đa Phúc, bao gồm cát kết, đá
phiến sét màu đỏ nâu, phớt lục, phớt tím xen kẽ với bột kết, đá phiến
sét phớt đỏ hệ tầng Nà Khuất (T2 nk).
Các đá trầm tích lục nguyên có chứa than:
Phân bố thành dải hẹp ở khu vực Đạo Trù (huyện Tam Đảo), thành phần
gồm cuội kết, cát kết, đá phiến sét, sét than và lớp than đá; phần trên
gồm cát kết, bột kết, đá phiến sét màu xám vàng, xám sẫm thuộc hệ tầng
Văn Lãng (T3n-r vl). Các trầm tích Neogen lộ ra ở khu
vực tây nam huyện Lập Thạch, dọc rìa tây nam huyện Tam Đảo, nằm kẹp giữa
các hệ thống đứt gãy sông Chảy và sông Lô, bao gồm tảnh kết, cát kết ở
phần dưới chuyển lên bột kết và sét kết màu xám đen.
Trầm tích bở rời: các
trầm tích Đệ Tứ phân bố rộng rãi ở phần phía Nam tỉnh, chạy dọc các
thung lũng sông Hồng, sông Lô, bao gồm cuội, sỏi, cát, sét vàng, sét bột
phong hóa laterit màu sắc loang lổ; sét màu xám xanh, xám vàng phong
hóa laterit yếu; kaolin, sét xanh, sét đen của hệ tầng Hà Nội, Vĩnh
Phúc, Thái Bình.
Các đá phun trào
phân bố ở phần đông bắc tỉnh, chiếm toàn bộ dãy núi Tam Đảo, bao gồm:
các đá ryolit đaxit, ryolit porphyr, felspat, plagioclas; tướng á phun
trào: xuyên cắt các đá phun trào, gồm ryolit porphyr
có ban tinh lớn, ít felspat dạng đai mạch nhỏ; tướng phun nổ: các thấu
kính tuf chứa ít các mảnh dăm, bom núi lửa của hệ tầng Tam Đảo (J-K1(?) tđ). Các đá phun trào Tam Đảo chủ yếu là đá ryolit, một số là đaxit.
Các đá magma xâm nhập thuộc
phức hệ sông Chảy, phân bố ở phía tây bắc huyện Lập Thạch, bao gồm các
đá: granodiorit, granit hạt từ vừa đến lớn, granit 2 mica, granit
muscovit hạt vừa đến nhỏ, và các mạch aplit, pegmatit. Đặc điểm của các
đá này là giàu nhôm, giàu kiềm. Các đá magma xâm nhập nằm trong hệ thống
đứt gãy phương tây bắc - đông nam, gồm hệ thống đứt gãy sông Chảy và
sông Lô.
VỊ TRÍ ĐỊA LÍ
Tỉnh Vĩnh Phúc nằm trong khu vực châu thổ sông Hồng thuộc trung du và miền núi phía bắc, có tọa độ: từ 21O 08’ (tại xã Đạo Trù, huyện Tam Đảo) đến 210 19` (tại xã Tráng Việt, huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội) vĩ độ bắc; từ 105 0 109’ (xã Bạch Lưu, huyện Sông Lô) đến 105o47’ (xã Ngọc Thanh, thị xã Phúc Yên) kinh độ đông.
Diện tích tự nhiên, tính đến 31/12/2008 là 1.231,76 km2,
dân số 1.014.488 người, gồm 9 đơn vị hành chính: thành phố Vĩnh Yên,
thị xã Phúc Yên và 7 huyện: Lập Thạch, Sông Lô, Tam Dương, Bình Xuyên,
Tam Đảo, Vĩnh Tường, Yên Lạc với 113 xã, 24 phường và thị trấn.
Tỉnh Vĩnh Phúc tiếp giáp với các tỉnh:
- Phía tây bắc giáp với tỉnh Tuyên Quang
- Phía đông bắc giáp với tỉnh Thái Nguyên
- Phía đông nam - nam giáp với thành phố Hà Nội
- Phía tây giáp với tỉnh Phú Thọ
KHÍ HẬU
Vĩnh Phúc nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có đầy đủ các đặc điểm khí hậu của vùng trung du miền núi phía Bắc.
Nhiệt độ trung bình năm là 23,5 – 25o C, nhiệt độ cao nhất là 38,5 0C, nhiệt độ thấp nhất là 20C.
Tuy nhiên do ảnh hưởng của yếu tố địa hình nên có sự chênh lệch khá lớn
về nhiệt độ giữa vùng núi và vùng đồng bằng. Vùng Tam Đảo, ở độ cao 1.000 m so với mực nước biển có nhiệt độ trung bình năm là 18,40C.
Lượng mưa trung bình hàng năm đạt 1.400
đến 1.600 mm, trong đó, lượng mưa bình quân cả năm của vùng đồng bằng
và trung du tại trạm Vĩnh Yên là 1.323,8 mm, vùng núi tại trạm Tam Đảo
là 2.140 mm. Lượng mưa phân bố không đều trong năm, tập trung chủ yếu từ
tháng 5 đến tháng 10, chiếm 80% tổng lượng mưa cả năm. Mùa khô từ tháng
11 đến tháng 4 năm sau chỉ chiếm 20% tổng lượng mưa trong năm.
Bảng 1: Lượng mưa trung bình các tháng tỉnh Vĩnh Phúc (mm):
Tháng
|
1
|
2
|
3
|
4
|
5
|
6
|
7
|
8
|
9
|
10
|
11
|
12
|
Trạm
Vĩnh Yên
|
89,0
|
35,4
|
56,2
|
101,1
|
76,8
|
153,8
|
198,4
|
236,0
|
220,0
|
61,5
|
9,0
|
9,5
|
Trạm
Tam
Đảo
|
10,7
|
79,5
|
78,9
|
112,6
|
107,8
|
227,4
|
167,2
|
185,5
|
310,3
|
117,9
|
26,6
|
38,0
|
- Số giờ nắng: Tổng
số giờ nắng bình quân trong năm là 1.400 đến 1.800 giờ, trong đó, tháng
có nhiều giờ nắng trong năm nhất là tháng 6 và tháng 7, tháng có ít giờ
nắng trong năm ít nhất là tháng 3
Bảng 2: Số giờ nắng của các tháng trong năm 2007
Tháng
|
1
|
2
|
3
|
4
|
5
|
6
|
7
|
8
|
9
|
10
|
11
|
12
|
Trạm
Vĩnh
Yên
|
65,7
|
90,6
|
32,7
|
82,7
|
167,3
|
214,8
|
216,2
|
171,2
|
140,0
|
123,4
|
189,9
|
50,8
|
Trạm
Tam
Đảo
|
63,9
|
72,0
|
32,7
|
86,5
|
139,6
|
162,8
|
163,1
|
128,0
|
110,6
|
93,9
|
200,9
|
42,5
|
- Chế độ gió: Trong năm có 2 loại gió chính: Gió đông nam thổi từ tháng 4 đến tháng 9; gió đông bắc: thổi từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau.
- Độ ẩm không khí: Độ
ẩm bình quân cả năm là 83%. Nhìn chung độ ẩm không có sự chênh lệch
nhiều qua các tháng trong năm giữa vùng núi với vùng trung du và vùng
đồng bằng. Vùng núi độ ẩm không khí được đo tại trạm Tam Đảo, vùng trung
du được đo tại trạm khí tượng Vĩnh Yên:
Bảng 3: Độ ẩm tương đối trung bình các tháng trong năm
Tháng
|
1
|
2
|
3
|
4
|
5
|
6
|
7
|
8
|
9
|
10
|
11
|
12
|
Vĩnh
Yên
|
75,0
|
72,0
|
87,0
|
79,0
|
73,0
|
76,0
|
77,0
|
80,0
|
78,0
|
76,0
|
76,0
|
82,0
|
Tam
Đảo
|
84,0
|
92,0
|
98,0
|
87,0
|
84,0
|
89,0
|
90,0
|
89,0
|
85,0
|
86,0
|
66,0
|
94,0
|
- Lượng bốc hơi: Bốc hơi bình quân trong năm là 1.040 mm, lượng bốc hơi bình quân trong 1 tháng từ tháng 4 đến tháng 9 là 107,58 mm, từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau là 71,72 mm.
Thủy văn mặt
Mạng
lưới thủy văn Vĩnh Phúc có 4 con sông chính chảy qua, gồm: sông Hồng,
sông Lô, sông Đáy, sông Cà Lồ. Lượng nước hàng năm của các sông này rất
lớn, có thể cung cấp nước tưới cho 38.200 ha đất canh tác nông nghiệp,
được chia làm 2 hệ thống sông chính: Hệ thống sông Hồng và hệ thống sông
Cà Lồ.
Hệ thống sông Hồng: Gồm
sông Hồng với 2 nhánh lớn là sông Đà ở bờ bên phải và sông Lô ở bờ bên
trái, cùng với 2 nhánh của sông Lô là sông Chảy ở Tuyên Quang và sông
Đáy ở Vĩnh Phúc.
Sông Hồng: chảy
qua các tỉnh Lào Cai, Yên Bái, Phú Thọ vào địa phận Vĩnh Phúc ở ngã ba
Hạc đến xã Tráng Việt, huyện Mê Linh, dài 41 km. Lưu lượng dòng chảy
trung bình trong cả năm là 3.860 m3/s, lớn gấp 4 lần lưu
lượng sông Thao, gấp 3 lưu lượng sông Lô và gấp đôi lưu lượng sông Đà.
Lưu lượng dòng chảy thấp nhất vào mùa cạn là 1.870 m3/s. Lưu lượng dòng chảy trung bình trong mùa mưa lũ là 8.000 m3/s. Lưu lượng lớn nhất là 18.000 m3/s.
Mực nước cao trung bình là 9.57m, hàng năm lên xuống thất thường, nhất
là về mùa mưa, có những cơn lũ đột ngột, nước dâng lên nhanh chóng, có
khi tới 3m trong 24 giờ. Mực nước đỉnh lũ thường cao hơn mực nước mùa
khô trên dưới 9m (trong cơn lũ lịch sử năm 1971, dao động tới
11,68m). Về mùa khô, hệ thống sông Hồng là nguồn cấp nước chính và vô
tận cho các trạm bơm hút lên tưới cho đồng ruộng xung quanh. Với hàm
lượng phù sa cao, tối đa có thể lên tới 14 kg/m3, số lượng phù sa lớn, mỗi năm có thể lên tới 80 triệu m3
hoặc 130 triệu tấn, chất lượng phù sa tốt, nước sông còn chứa nhiều
chất khoáng, sông Hồng đã bồi đắp cho Vĩnh Phúc dải đồng bằng phì nhiêu
màu mỡ. Hiện nay, sông vẫn tiếp tục bồi phù sa cho đồng bãi ven bờ và cả
cho ruộng trong đê qua những con ngòi thông ra sông.
Sông Lô:
Chảy vào địa phận Vĩnh Phúc từ xã Quang Yên, huyện Sông Lô, qua xã Việt
Xuân, huyện Vĩnh Tường đến ngã ba Bạch Hạc thì đổ vào sông Hồng, có
chiều dài tổng cộng là 34 km. Lưu lượng dòng chảy bình quân năm 1996 là
1.213 m3/s; về mùa mưa lên tới 3.230 m3/s; cao nhất năm 1996 là 6.560 m3/s,
biên độ dao động mực nước trung bình là 6m, năm 1971 chênh nhau tới
11,7m. Hàm lượng phù sa của sông Lô ít hơn của sông Hồng. Vào mùa mưa lũ
lượng phù sa là 2.310 kg/m3. Mùa cạn, nước sông trong xanh,
hầu như không mang phù sa. So với sông Hồng, hàm lượng phù sa của sông
Lô ít hơn song lại giàu chất phù sa hơn. Dòng sông Lô hàng năm vẫn bồi
đắp phù sa cho bờ bãi hai bên, nhưng diện bồi và lượng bồi ít hơn sông
Hồng. Sông Lô còn tiếp thêm nước cho hệ thống thủy lợi Liễn Sơn qua trạm
bơm Bạch Hạc.
Sông Đáy: Chảy
vào địa phận Vĩnh Phúc từ xã Quang Sơn ở bờ phải và xã Yên Dương huyện
Lập Thạch. Ở bờ trái, chảy giữa huyện Lập Thạch và hai huyện Tam Dương,
Vĩnh Tường dài 41,5 km rồi đổ vào sông Lô giữa xã Sơn Đông, huyện Lập
Thạch và xã Việt Xuân, huyện Vĩnh Tường. Sông Đáy có lưu lượng bình quân
là 23 m3/s; lưu lượng cao nhất là 833 m3/s; mùa khô kiệt, lưu lượng chỉ 4 m3/s, có quãng sông cạn có thể lội qua được. Sông Đáy cũng có lưu lượng phù sa như sông Lô (2,44 kg/m3)
nhưng có vai trò quan trọng nhất trong việc cung cấp nước cho hệ thống
thủy nông Liễn Sơn dài 175 km, tưới cho 14.000 ha ruộng của các huyện
Tam Dương, Vĩnh Tường, Yên Lạc, Bình Xuyên, Mê Linh.
Hệ thống sông Cà Lồ: Chảy trong nội tỉnh, sông Cà Lồ và các chi lưu của nó, đáng kể nhất là sông Phan, sông Cầu Bòn, sông Bá Hạ, suối Cheo Meo...
Sông Cà Lồ: là
một nhánh của sông Hồng tách ra. Sông Cả Lồ chảy từ xã Vạn Yên, huyện
Mê Linh theo hướng Tây Nam - Đông Bắc, giữa hai huyện Bình Xuyên và Mê
Linh, vòng quanh thị trấn Phúc Yên rồi theo đường vòng cung rộng phía
Nam hai huyện Kim Anh và Đa Phúc cũ, đổ vào sông Cầu ở thôn Lương Phúc,
xã Việt Long (nay thuộc huyện Sóc Sơn), có chiều dài 86 km. Nguồn nước
sông Cà Lồ ngày nay chủ yếu là nước các sông, suối bắt nguồn từ núi Tam
Đảo, núi Sóc Sơn, lưu lượng bình quân chỉ 30 m3/s. Lưu lượng cao nhất về mùa mưa là 286 m3/s.
Tác dụng chính của sông là tiêu úng vào mùa mưa lũ. Riêng khúc sông đầu
nguồn cũ từ Vạn Yên đến sông Cánh đã được đắp chặn lại ở gần thôn Đại
Lợi (Mê Linh), dài gần 20 km, biến thành một hồ chứa nước lớn tưới ruộng
và nuôi cá.
Sông Phan:
Bắt nguồn từ núi Tam Đảo, thuộc địa phận các xã Hoàng Hoa, Tam Quan,
Hợp Châu, chảy qua các xã Duy Phiên, Hoàng Lâu (Tam Dương), Kim Xá, Yên
Lập, Lũng Hòa, Thổ Tang (Vĩnh Tường) theo hướng Đông Bắc- Tây Nam; vòng
sang hướng Đông Nam qua các xã Vũ Di, Vân Xuân (Vĩnh Tường) rồi theo
hướng Tây Nam - Đông Bắc qua các xã Tề Lỗ, Đồng Văn, Đồng Cương (Yên
Lạc) đổ vào Đầm Vạc (Vĩnh Yên), qua xã Quất Lưu chảy về Hương Canh (Bình
Xuyên) qua xã Sơn Lôi, nhập với sông Bá Hạ rồi đổ vào sông Cà Lồ ở địa
phận xã Nam Viêm (Mê Linh).
Sông Cầu Bòn: Bắt
nguồn từ Thác Bạc núi Tam Đảo, đổ xuống làng Hà, xã Hồ Sơn hợp với suối
Xạ Hương, suối Bàn Long thuộc xã Minh Quang, huyện Tam Đảo, chảy từ
phía Bắc xuống phía Nam qua các xã Gia Khánh, Hương Sơn, Tam Hơp rồi đổ
vào sông Cánh xã Tam Hơp đều thuộc huyện Bình Xuyên.
Sông Phan và sông Cầu Bòn hình thành nên một đường vòng cung, hai đầu
móc vào sườn Tam Đảo. Về mùa khô, mực nước hai con sông này rất thấp,
nhiều chỗ có thể lội qua được. Nhưng về mùa mưa, nước từ Tam Đảo trút
xuống không tiêu kịp vào sông Cà Lồ thường ứ lại ở Đầm Vạc và làm ngập
úng cả một vùng ruộng giữa hai huyện Yên Lạc và Bình Xuyên.
Phía Đông huyện Yên Lạc ngày nay còn lại nhiều dải đầm dài thuộc địa
phận các xã Bình Định, Minh Tân, Tam Hồng, Liên Châu.
Sông Bá Hạ: Bắt
nguồn từ suối Nhảy Nhót giữa xã Trung Mỹ, huyện Bình Xuyên và xã Ngọc
Thanh, thị xã Phúc Yên, sông Bá Hạ chảy giữa xã Bá Hiến (Bình Xuyên) và
xã Cao Minh (Mê Linh) đến hết địa phận xã Bá Hiến, đầu xã Sơn Lôi (Bình
Xuyên), nhập với sông Cánh chảy về sông Cà Lồ.
Suối Cheo Meo: Bắt nguồn từ xã Minh Trí (Sóc Sơn), chiều dài 11,5 km, đổ vào sông Cà Lồ ở xã Nam Viêm (Mê Linh).
Ngoài
ra Vĩnh Phúc còn có nhiều đầm, hồ lớn, có tới 94 hồ lớn nhỏ với khả
năng cung cấp nước tưới cho 33.500 ha đất canh tác nông nghiệp.
Các
hồ thiên tạo như: Đầm Vạc, Đầm Dưng, Vực Xanh, vực Quảng Cư, đầm Ngũ
Kiên (Vĩnh Tường), đầm Tam Hồng, đầm Cốc Lâm (Yên Lạc), hồ Đá Ngang, hồ
Khuôn, hồ Suối Sải (Lập Thạch), đầm Riệu (Phúc Yên). .. Các đầm
hồ nhân tạo gồm: hồ Đại Lải (Phúc Yên), hồ Xạ Hương (Bình Xuyên), hồ
Làng Hà (Tam Dương), hồ Vân Trục, hồ Bò Lạc (Sông Lô).. .
THỦY VĂN NGẦM
Đặc điểm các tầng chứa nước trong lãnh thổ tỉnh Vĩnh Phúc gồm:
Tầng chứa nước Proterozoi: cấu
tạo bởi các đá biến chất cao, chủ yếu là đá phiến gơnai, quaczit,
amphibolit. Nước ở tầng này trong, chất lượng tốt, lưu lượng nhỏ. Tuy
nhiên, ở những đới phá hủy, đập vỡ lưu lượng nước có thể đạt tới trên
5lít/s. Tầng phá hủy của tầng chứa nước Proterozoi có nước chất lượng
tốt, có thể làm nước giải khát.
Tầng chứa nước Mezozoi: Cấu
tạo bởi các đá phun trào Triat giữa và muộn cùng các thành tạo chứa
than của hệ tầng Văn Lãng. Chất lượng nước không đều, có nơi bị nhiễm
sắt, lưu lượng nước nhỏ.
Tầng chứa nước Kainozoi: Đây là tầng chứa nước quan trọng. Tuy nhiên do vỏ phong hóa mỏng nên lưu lượng nước không lớn, phần lớn chỉ sâu 4-5 m đã gặp đá gốc. Tầng chứa nước đứt gãy trong các đới phá hủy, nước tập trung với tiềm năng lớn, chất lượng tốt.
Tầng chứa nước đứt gãy: Được hình thành trên các đứt gãy, nước tập trung với tiềm năng lớn, chất lượng tốt.
ĐỊA HÌNH
Địa hình Vĩnh Phúc kéo dài theo phương tây bắc - đông nam, là phương chung của địa hình ở miền Bắc và Đông Bắc Bắc bộ Việt Nam.
Phía bắc của tỉnh có dãy núi Tam Đảo với đỉnh Đạo Trù cao 1.592m, phía
tây Nam được bao bọc bởi 2 con sông lớn là sông Hồng và sông Lô, tạo nên
dạng địa hình thấp dần từ đông bắc xuống tây nam và chia ra 3 vùng có
địa hình đặc trưng: đồng bằng, gò đồi, núi thấp và trung bình.
Địa hình đồng bằng: gồm
76 xã, phường và thị trấn, với diện tích tự nhiên là 46.800 ha. Vùng
đồng bằng bao gồm vùng phù sa cũ và phù sa mới, chủ yếu do phù sa của
các hệ thống sông lớn như: Sông Hồng, sông Lô, sông Đáy bồi đắp nên vùng
phù sa cũ chiếm diện tích khá rộng, gồm phía bắc của thị xã Phúc Yên,
các huyện Yên Lạc, Vĩnh Tường và phía nam của các huyện Tam Dương, Bình
Xuyên, được hình thành cùng thời kì hình thành châu thổ sông Hồng (Kỉ Đệ
tứ - Thống Pleitoxen). Vùng phù sa mới dọc theo các con sông thuộc các
huyện Lập Thạch, Vĩnh Tường, Yên Lạc, nam Bình Xuyên, được hình thành
vào thời kì Đệ tứ - Thống Holoxen. Đất đai vùng đồng bằng được phù sa
sông Hồng bồi đắp nên rất màu mỡ, là điều kiện lí tưởng cho việc phát
triển kinh tế nông nghiệp thâm canh.
Địa hình đồi: gồm 33 xã, phường và thị trấn, với diện tích tự nhiên là 24.900 ha, đây là vùng đồi thuận lợi cho
phát triển cây công nghiệp, cây ăn quả và hoa màu kết hợp với chăn nuôi
gia súc, tạo điều kiện thuận lợi trong việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng
và chăn nuôi theo hướng tăng sản xuất hàng hoá thực phẩm. Vùng đồi núi
Bình Xuyên: Là vùng được thành tạo vào thời kì Trung Trias giữa Đệ Tam,
gồm các lớp trầm tích bể cạn, gồm các phiến thạch, sa thạch, phiến sa
và một số loại đá khác xen kẽ.
Địa hình núi thấp và trung bình: Có
diện tích tự nhiên là 56.300 ha, chiếm 46,3% diện tích tự nhiên của
tỉnh. Địa hình vùng núi phức tạp bị chia cắt, có nhiều sông suối, đây là
một trong những ưu thế của Vĩnh Phúc so với các tỉnh quanh Hà Nội, vì
nó sẽ là điều kiện thuận lợi cho việc phát triển các khu công nghiệp tập
trung và các khu du lịch sinh thái. Vùng núi Tam Đảo có diện tích rừng
quốc gia là 15.753ha.
Phân bố dân số
Quy
mô dân số tăng lên trên một diện tích tự nhiên vốn tương đối ổn định,
dẫn đến mật độ dân số Vĩnh Phúc cũng tăng theo: từ 680 người/km2 năm 1989 đã tăng lên tới 867 người/km2 năm 2007, cao hơn 3 lần so với mật độ trung bình của nước ta (Việt Nam 2007: 257 người/km2). Để đảm bảo chất lượng cuộc sống, bình quân 1 km2
chỉ nên có 35 - 40 người sinh sống, tuy nhiên, mật độ dân số ở Vĩnh
Phúc đã cao gấp nhiều lần so với mật độ dân số chuẩn. Do mật độ dân số
cao lại là tỉnh trung du, miền núi nên bình quân đất canh tác trên đầu
người ở Vĩnh Phúc rất thấp, chỉ có 0,04 ha/người trong khi bình quân
toàn quốc là 0,09 ha/người.
Cũng
giống như tình trạng chung của toàn quốc, mật độ dân số ở Vĩnh Phúc
không đều, tập trung dày ở đô thị và thưa thớt ở nông thôn, miền núi. Ví
dụ năm 2007 cao nhất ở thành phố Vĩnh Yên (1.663 người/km2) và các huyện đồng bằng như Yên Lạc (1.387 người/km2), Vĩnh Tường (1.390 người/km2), nhưng thấp ở các huyện miền núi, trung du như Tam Đảo (291 người/ km2), Lập Thạch (666 người/ km2).
Điều bất hợp lí là vùng đồng bằng có đất đai màu mỡ, thuận lợi phát
triển nông nghiệp, chỉ chiếm hơn 18% diện tích của tỉnh nhưng lại tập
trung tới hơn 29% dân số.
Quy mô dân số
Đến
năm 1930, tỉnh Vĩnh Yên có 5 huyện (Tam Dương, Bình Xuyên, Lập Thạch,
Yên Lạc và Vĩnh Tường), với 46 tổng, 302 làng, dân số 210.422 người
(trong đó 208.282 người Kinh, 56 người Âu, 2.008 người Cao Lan, Sán Dìu,
45 người Thổ, 31 người Hoa). Tỉnh Phúc Yên có 4 huyện (Yên Lãng, Đa
Phúc, Kim Anh, Đông Anh) với 34 tổng, 217 làng, dân số 175.250 người
(174.467 người Kinh, 22 người Âu, 727 người Sán Dìu, 34 người Hoa). Tổng
dân số Vĩnh Phúc lúc này là 385.672 người.
Năm 1950, khi hợp nhất tỉnh, Vĩnh Phúc có diện tích 1.715 km2
với dân số gần 47 vạn người, bao gồm 14 dân tộc, trong đó đông nhất là
người Kinh (chiếm 98,38%). Đồng bào dân tộc thiểu số sống rải rác ở 17
xã dọc dãy núi Tam Đảo và núi Sáng thuộc 5 huyện (Tam Dương, Bình Xuyên,
Lập Thạch, Kim Anh và Đa Phúc).
Theo
bảng thống kê dân số năm 1956 của tỉnh Vĩnh Phúc đã được Bộ Nội vụ điều
chỉnh số liệu thì tổng số hộ là 123.098 và số dân 541.038 người.
Tính
đến 31/12/1985, toàn tỉnh có 841.390 người. Năm 1997, ngay sau khi tái
lập tỉnh, dân số toàn tỉnh là 1.103.810 người. Năm 1999, theo kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở, toàn tỉnh có 1.091.973 người (trong đó có 560.077 nữ).
Từ năm 2000 đến năm 2007, dân số toàn tỉnh tương ứng đạt quy mô: 1.110.111; 1.125.415;
1.137.316; 1.148.731; 1.154.792; 1.168.889; 1.180.418 và 1.190.428.
Bình quân mỗi năm dân số Vĩnh Phúc tăng thêm hơn 10 nghìn người; nhiều
gấp 1,3 lần dân số một xã trung bình của tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay.
Bảng 1: Đơn vị hành chính, diện tích, dân số trung bình và mật độ dân số ở Vĩnh Phúc năm 2008
Stt
|
Tên huyện, thị xã, thành phố
|
Số xã
|
Số phường, thị trấn
|
Diện tích
(Km2) |
Dân số trung bình (Người)
|
Mật độ dân số
(Người/Km2) |
1
|
Thành phố Vĩnh Yên
|
2
|
7
|
50,81
|
85.231
|
1.677
|
2
|
Thị xã Phúc Yên
|
4
|
6
|
120,13
|
88.657
|
738
|
3
|
Huyện Tam Dương
|
12
|
1
|
107,18
|
96.736
|
902
|
4
|
Huyện Tam Đảo
|
8
|
1
|
235,88
|
69.315
|
294
|
5
|
Huyện Bình Xuyên
|
10
|
3
|
145,67
|
108.944
|
748
|
6
|
Huyện Yên Lạc
|
16
|
1
|
106,77
|
149.387
|
1.399
|
7
|
Huyện Vĩnh Tường
|
27
|
2
|
141,90
|
198.918
|
1.402
|
8
|
Huyện Sông Lô
|
16
|
1
|
150,31
|
93.984
|
625
|
9
|
Huyện Lập Thạch
|
18
|
2
|
173,10
|
123.664
|
714
|
Tổng số
|
113
|
24
|
1.231,76
|
1.014.488
|
824
|
Với mức dân số 1.014.488 người, Vĩnh Phúc là tỉnh có quy mô dân số nhỏ
hơn so với dân số trung bình của một tỉnh trong toàn quốc và thấp hơn
nhiều so với dân số trung bình của một tỉnh thuộc vùng Đồng bằng sông
Hồng.
Tốc độ tăng dân số
Từ
ngày hòa bình lập lại (1954) cho đến sau này, dân số Vĩnh Phúc phát
triển với tốc độ khá nhanh, chủ yếu do tăng cơ học. So sánh khái quát
(trừ dân số các huyện Đông Anh, Đa Phúc, Kim Anh tách về Hà Nội), trong
vòng 70 năm (1930-2000), dân số tỉnh Vĩnh Phúc tăng gấp 4 lần (hiện nay,
mỗi năm dân số Việt Nam tăng trên 1 triệu người. Kết quả
điều tra và thống kê dân số học cho thấy sau 85 năm, dân số nước ta tăng
lên 5,3 lần, trong khi cùng thời gian này dân số thế giới chỉ tăng
khoảng 3,6 lần).
Từ
năm 1990 đến năm 2004, tuy tốc độ phát triển dân số ở Vĩnh Phúc có
chiều hướng giảm nhưng quy mô dân số vẫn tiếp tục gia tăng bình quân
12.850 người/năm, lớn hơn 1,7 lần dân số một xã trung bình năm 2004 của
tỉnh, do đó năm 1990 dân số trung bình toàn tỉnh mới có 962.003 người,
nhưng sau 15 năm đã đạt 1.154.792 người (thấp hơn so với dự báo trong Chiến lược dân số giai đoạn 2001- 2010; dự
báo năm 2004 đạt 1.164.400 người). Theo dự báo của Cục Thống kê tỉnh
Vĩnh Phúc, trong 10 năm từ 2001 đến 2010, mỗi năm dân số vẫn tăng trung
bình 11.685 người, quy mô dân số sẽ đạt 1.241.000 người vào năm 2010.
Tốc
độ tăng dân số tỉnh Vĩnh Phúc có xu hướng tăng, nhưng đến năm 2002 và
2003 mức tăng đã có biểu hiện giảm xuống. Nếu coi tốc độ tăng dân số năm
1990 là 100% thì năm 2001 đạt 101,38% và năm 2004 chỉ ở mức 100,53%.
Dân số phát triển với tốc độ cao và chưa ổn định đã gây sức ép không nhỏ
tới sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Quy
mô dân số tăng lên kéo theo số phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ (15- 49)
cũng sẽ tăng trung bình 7.750 người/năm trong giai đoạn 2001-2010. Uớc
tính bình quân trong giai đoạn 2001-2010, mỗi năm cứ có 1 phụ nữ bước ra
khỏi tuổi sinh đẻ thì có 2,94 phụ nữ bước vào tuổi sinh đẻ. Tỷ lệ này
cho thấy một tiềm năng sinh sản cao của dân số Vĩnh Phúc trong thập kỷ
đầu tiên của thế kỷ XXI.
Cơ cấu dân số
- Cơ cấu theo tuổi
Tháp
dân số năm 1989 của tỉnh Vĩnh Phúc có đáy rộng, đặc trưng cho mô hình
dân số ở các nước đang phát triển, biểu thị cơ cấu dân số có tỉ trọng
trẻ em lớn nhất, là kết quả của mức sinh đẻ còn cao. Tuy vậy, chỉ sau
một thập kỉ, năm 1999 tháp dân số của tỉnh đã có biến đổi rõ rệt theo
chiều hướng giảm tỉ trọng trẻ em nhóm 0-4 và 5-9 tuổi. Kết quả này là do
tác động của công tác dân số của tỉnh trong một thời gian lâu dài.
Tháp
dân số năm 1999 tỉnh Vĩnh Phúc đã có biến đổi theo chiều hướng đáy tháp
thu hẹp lại. Tỉ trọng trẻ em dưới 15 tuổi có xu hướng giảm từ 40% năm
1989 xuống còn 32,1% năm 2000 (tương đương với toàn quốc: 39,2% và 33,0%
) và dự kiến còn 28% năm 2010. Tuy vậy, tỉ trọng này cũng vẫn là thách
thức lớn đối với việc chăm sóc, nuôi dạy trẻ em và tạo việc làm cho
người lao động. Bên cạnh đó tình trạng già hóa dân số cũng diễn ra dù
chậm chạp, với tỉ trọng nhóm người 60 tuổi trở lên tuy thấp nhưng đang
tăng lên từ 7,5% năm 1989 đến 8,6% năm 2000 và dự kiến đạt 10% vào năm
2010, sẽ liên quan đến việc gia tăng các phúc lợi xã hội và dịch vụ chăm
sóc sức khỏe cho người già.
Tỉ
trọng nhóm tuổi lao động (15-59) chiếm 50,5% năm 1989 (thấp hơn so với
toàn quốc: 53,7%), tăng lên 60,6% năm 2000 (toàn quốc năm 1999: 59,0%)
và dự kiến sẽ tăng lên 62% năm 2010. Sự tăng lên không ngừng của dân số
trong tuổi lao động trong giai đoạn 2001- 2010 là lợi thế cho nguồn lao
động nhưng cũng trở thành nguy cơ bùng nổ dân số nếu chính sách dân số
không được thực hiện tốt.
Với
cơ cấu tuổi như nêu trên, tỉ số phụ thuộc trong dân số Vĩnh Phúc cũng
giống như của cả nước đã và sẽ không ngừng giảm xuống, mỗi người lao
động sẽ nhẹ gánh người ăn theo hơn, tạo điều kiện tốt cho nền kinh tế
quốc dân, kinh tế gia đình có tiết kiệm để đầu tư và phát triển.
- Cơ cấu dân số theo giới
Từ
năm 1990 đến năm 2007, những số liệu có được đã cho thấy ở tỉnh Vĩnh
Phúc, số lượng nữ trong dân số luôn nhiều hơn so với số lượng nam. Tỉ lệ
nam giới trong dân số ở Vĩnh Phúc năm 1990 chiếm 47,8%, năm 1997 là
48,6% và năm 2004 là 48,3% đều thấp hơn so với tỉ lệ nam trong dân số
toàn quốc (tương ứng là 48,54%; 48,96% và 49,15%).
Đến
hết 31/12/ 2006, theo số liệu thống kê chuyên ngành Dân số Gia đình Trẻ
em, số trẻ sinh ra trong toàn tỉnh là 18.711 cháu, trong đó số trẻ là
nữ có 8.632 cháu, tỉ lệ giới tính của trẻ khi sinh là 117 nam/100 nữ,
báo hiệu sự mất cân bằng giới tính khi sinh.
- Cơ cấu dân số theo khu vực thành thị và nông thôn
Việt Nam
là quốc gia có tỉ lệ dân đô thi thấp so với thế giới và các nước đang
phát triển. Tỉ lệ dân số thành thị của tỉnh Vĩnh Phúc còn rất thấp so
với toàn quốc, tuy hàng năm có tăng dần, năm 1990 là 5,8%, nhưng đến năm
1999 mới đạt 10,17%, thấp xa so với mức của toàn quốc (23,48%) và của
vùng đồng bằng sông Hồng (21,06%). Đến năm 2007, tỷ lệ dân số thành thị
của tỉnh Vĩnh Phúc mới đạt 17,23%, trong khi mức của toàn quốc là
27,44%.
Tỉ
lệ dân số thành thị ở Vĩnh Phúc không đều giữa các đơn vị hành chính
trực thuộc tỉnh; năm 2007, đạt 83,9% ở thành phố Vĩnh Yên hoặc 70,2% ở
thị xã Phúc Yên, nhưng rất thấp ở khu vực huyện, nhất là các huyện Tam
Đảo (1,1%), Vĩnh Tường (2,6%), Lập Thạch (4%), v.v...
Cùng với quá trình đô thị hóa của cả nước, tỉ lệ dân số thành thị ở
Vĩnh Phúc đã tăng dần hàng năm, đạt 13,9% năm 2004 và 17,23% năm 2007.
Tuy nhiên, so với dự báo của Chiến lược dân số tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn
2001- 2010 thì kết quả này không đạt (năm 2004: chỉ tiêu là 18,4% ) và
không đạt được mức 25,7% vào năm 2005 cũng như rất khó đạt mức 28,9% vào
năm 2010. Trong những năm gần đây, tỉ lệ dân đô thị ở Vĩnh Phúc tăng
mạnh. Mặc dù so với một số tỉnh ở vùng đồng bằng sông Hồng, vào năm
1999, tỉ lệ dân đô thị ở Vĩnh Phúc còn cao hơn Hà Tây (7,8%), Thái Bình
(5,6%), Hà Nam (6%).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét