Thứ Hai, 18 tháng 2, 2013

chim trĩ giống , bán chim tri giong , chim trỉ thịt , trĩ đỏ , tri do , công xanh , cong 7 bảy màu , cong bay mau giá rẻ

 Bán chim trĩ giống , chim trĩ đỏ , chim trĩ xanh , chim trĩ 7 ( bảy )  màu

Nuôi thành công chim trĩ nằm trong sách đỏ


Chỉ sau hơn 10 tháng đưa giống chim trĩ đỏ khoang cổ quý hiếm về nuôi nhốt tại nhà đã mang lại cho gia đình người thương binh hạng 3/4 Trần Danh Minh (60 tuổi, ngụ ở xóm 5, xã Cẩm Vịnh, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh) nguồn thu nhập kinh tế ngoài sức mong đợi, bước đầu từ 60 - 70 triệu đồng 
Ông Minh phấn khởi: “Khách hàng ở huyện Hưng Nguyên (tỉnh Nghệ An) vào đặt mua tiếp 4 con giống nữa và đến ngày 20-10 khách hàng ở huyện miền núi Hương Sơn (tỉnh Hà Tĩnh) đặt mua 4 con... Trước đó khách hàng ở huyện Hương Sơn và Hưng Nguyên cũng đã vào đây đặt mua 14 con giống về nuôi rồi. Vậy là giống chim quý hiếm này đang bắt đầu được nhân rộng, tôi cảm thấy thành công rồi”.
Vào ngày 28-10-2011 tình cờ khi đang ngồi xem kênh VTV2 của Đài Truyền hình Việt Nam có phát chương trình nông nghiệp nông thôn giới thiệu về mô hình kinh tế trang trại thành công của một người thanh niên chưa lập gia đình quê ở Hưng Yên, ngay lập tức ông Minh đắn đo: “Họ làm được như thế, cớ sao mình lại không làm được”. Thế rồi, ông bàn tính với vợ con và vay mượn tiền, bắt xe ra thẳng Hưng Yên tìm đến mô hình của người thanh niên kia để xin được học hỏi kinh nghiệm nuôi chim trĩ đỏ khoang cổ.
Đến thời điểm hiện tại trong chuồng của gia đình ông Minh đang nuôi trưởng thành 51 con chim trĩ giống chuẩn bị xuất về các huyện miền núi Hương Sơn (Hà Tĩnh), Hưng Nguyên (Nghệ An) và bán thương phẩm cho các nhà hàng, khách sạn trên địa bàn tỉnh. Ngoài ra, còn có thêm 2 ổ với 45 quả trứng đang ấp. Ông Minh khẳng định, trong tương lai không xa, gia đình sẽ đầu tư thêm vốn phát triển mô hình nuôi chim trĩ đỏ này lên thành trang trại lớn để nhân rộng nguồn giống ra khắp toàn tỉnh, đặc biệt sẽ có giống để thả về lại rừng xanh...

DƯƠNG QUANG

Lâm Đồng: Ngắm chim hoang dã sinh sản trong... lồng

- Điều đặc biệt, tất cả các loại chim hoang dã như chào mào, vành khuyên, cu rừng, chim trĩ, chim ri, gà lôi, gà rừng… được nuôi tại trang trại này đều cho sinh sản, điều mà từ trước tới nay chúng ta ít người được chứng kiến.

Năm 1999, ông Nguyễn Tuấn Thỏa, trú tại thị trấn Liên Nghĩa, huyện Đức Trọng (Lâm Đồng) tình cờ mua được một đôi chim trĩ do một người dân vừa bắt được ngoài rừng đem về nuôi với mục đích chơi cảnh. Sau một thời gian chăm sóc, ông Thỏa phát hiện đôi trĩ này bắt đầu sinh sản những quả trứng đầu tiên, từ đó ông liền nảy sinh ý tưởng nuôi chim hoang dã sinh sản.
Hiện nay, trong trang trại của gia đình ông Nguyễn Tuấn Thỏa đang có nhiều loại chim hoang dã, trong đó có một số loại được ghi trong sách đỏ Việt Nam như chim trĩ, gà lôi… đang cho sinh sản. Ông Thỏa cho biết, chính ông cũng rất bất ngờ khi một số loài chim hoang dã chỉ cho sinh sản ở môi trường tự nhiên như chào mào, vành khuyên, cu rừng, gà rừng… được ông nuôi trong chuồng cũng sinh sản.
Hằng năm ông Thỏa thu về gần 100 triệu đồng từ việc bán chim con.
Dưới đây là một số hình ảnh về các loại chim hoang dã sinh sản được phóng viên ghi lại:
Gà lôi
Chim trĩ trống
Chim cu rừng sinh sản đang ấp trứng trong tổ
Chim cu rừng non vừa ra khỏi tổ

Sau khi tốt nghiệp Trung cấp thú y, anh Nguyễn Văn Kiên ở chi hội 7 Hội nông dân xã Ba Sao - huyện Kim Bảng đã tập trung tiếp cận thị trường con nuôi để tìm hướng đi, tạo lập nghề phát triển kinh tế gia đình...

CHIM TRĨ ĐỎ ĐƯỢC NUÔI TẠI BA SAO

  Sau khi tốt nghiệp Trung cấp thú y, anh Nguyễn Văn Kiên ở chi hội 7 Hội nông dân xã Ba Sao - huyện Kim Bảng đã tập trung tiếp cận thị trường con nuôi để tìm hướng đi, tạo lập nghề phát triển kinh tế gia đình. Qua nghiên cứu và thăm quan mô hình, anh quyết định đầu tư vào chăn nuôi chim trĩ đầu đỏ khoang cổ. Bởi đây là con chim quý hiếm đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn so với các loài vật nuôi hiện nay.
Từ tháng 2 năm 2010, anh Kiên đã đầu tư 14 triệu đồng mua 14 con chim hậu bị để nhân giống. Sau 2 tháng, 10 con chim mái bắt đầu đẻ trứng. Nói về kinh nghiệm nuôi chim trĩ, anh Kiên cho biết:
- Về đặc điểm sinh học: Đây là loài chim hoang dã, sống định cư, thích nghi với điều kiện môi trường nhốt, theo bộ gà, chúng không biết ấp trứng và nuôi con. Chim trống có bộ lông rất đẹp, óng mượt có màu xanh ở đầu và cổ. Phần lông còn lại có màu hung đỏ, hay nâu vàng, chiều dài con trống khi trưởng thành từ 70 – 90cm. Chim mái có bộ lông vằn nâu điểm chấm đen hay màu xám mốc, mào thấp có kích thước nhỏ hơn chim trống
- Cách chọn giống: Dựa vào đặc điểm cơ thể ở cùng lứa tuổi, chim trống có ngoại hình lớn hơn, lúc còn nhỏ rất khó phân biệt, chủ yếu dựa vào cảm quan về sự khác biết trong tập tính sinh hoạt, kích thước cơ thể, chiều cao chân, ở giai đoạn 2 – 3 tháng tuổi chim trống chuyển dần màu lông từ nâu nhạt sang màu pha đỏ, có thân hình lớn hơn chim mái rõ rệt. Chim trống trưởng thành có thể nặng tới 1,5-2kg/con, lông đuôi dài đẹp khoảng 0,4-0,6m. Chim mái có kích thước và trọng lượng nhỏ hơn trung bình từ 0,7-1,3kg/con. Chọn chim trống có ngoại hình to, cao, đuôi dài, lông mượt, trường chim, có dáng khoả, nhanh nhẹn. Chim mái thân hình bầu, nở hậu không dị hình dị tật, khoả mạnh.
Về kỹ thuật làm chuồng nuôi:
+ Chim non từ 1-3 tháng tuổi, nuôi úm trong chuồng lưới mắt cáo hoặc rải chấu trên nền hạn chế chim tiếp đất đảm bảo kín gió, vệ sinh môi trường tốt, cách ly ngừa dịch bệnh. Tách dần mật độ chim úm sau 30 ngày, 60 ngày. Đến 90 ngày thì đưa chim ra chuồng lớn mật độ từ 1-2 con/m2
+ Đối với chim trưởng thành: Chia chuồng thành nhiều ô khách nhau để tạo điều kiện theo dõi bệnh tật cũng như sinh trưởng của chim. Chim trĩ dễ thích nghi với điều kiện sống như gà nên việc làm chuồng nuôi khá đơn giản, có thể tận dụng cải tạo lại khu chăn nuôi cũ, nhưng phải đảm bảo vệ sinh, thoáng và kín để chim không bay đi mất. Dùng lưới B40 để ngăn ô chuồng theo diện tích 2mx2m =4m2 nuôi 4 các thể bố mẹ, trong đó có 1 chim trống và 3 chim mái. Nền chuồng được rải 1 phần cát vàng để chim tắm cát và làm ổ đẻ, phần còn lại là bêtông. Thường xuyên vệ sinh chuồng trại, phun thuốc khử trùng tiêu độc.
- Thời kỳ đẻ trứng và kỹ thuật ấp nở: Chim trĩ sau khi nuôi được 7-8 tháng, chim bắt đầu đẻ, thời gian đẻ theo mùa, thường từ tháng 1-4 âm lịch, sau đó nghỉ để và thay lông khoảng 1 tháng rồi tiếp tục đẻ lứa thứ 2 đến khoảng tháng 8-9 âm lịch (chớm mùa đông thì nghỉ). Bình quân mỗi con đẻ 90-110 quả/năm. Do chim không có bản năng ấp trứng nên phải sử dụng phươn pháp ấp bằng máy. Thời gian ấp từ 23-24 ngày, tỷ lệ nở đạt trên 80%.
- Việc chăm sóc chim trĩ tương tự như gà:
+ Nuôi chim giai đoạn 1-3 tháng tuổi theo phương thức úm trong chuồng nhỏ kín gió, nhiệt độ thích hợp. Dùng thức ăn cám viên của gà con và nước đun sôi để nguội cho chim.
+ Nuôi chim trưởng thành bằng thức ăn gia cầm theo giai đoạn trưởng thành và sinh sản kết hợp với thóc, rau xanh để chim không bị béo lú, hạn chế thức ăn tanh như tôm, cua, cá.  Ngoài ra còn cho chim ăn bổ sung thêm các chất khoáng Ca, Zn.
Lưu ý: Đối với chim trống chúng có bộ mỏ nhọn sắc, nên phải cắt hoặc mài bớt phần mở tránh chim ăn trứng.
- Cách phòng và trị bệnh:
+ Khi chim mới nở sử dụng các loại kháng sinh đặc trị Ecoli hoà vào nước uống, liều lượng bằng 2 lần so với hướng dẫn trên bao bì của gà.
+ Chim từ 5-7 ngày tuổi, dùng vacxin Lasota nhỏ mắt mũi. Mỗi cá thể chim từ một đến hai giọt ( nhỏ 2 lầm, lần sau cách lần trước 15 ngày).
+ Khi chim 2 tuần tuổi cho uống vacxin Gum.
+ Từ 2 tháng tuổi bắt đầu tiêm phòng bệnh Niucatson, tụ huyết trùng
+ Đối với các bệnh cúm gà cần tiêm phòng theo lịch triển khai của xã.
Với các  biện pháp đó, sau 1 năm chăn nuôi đàn chim trĩ của gia đình anh Kiên phát triển tốt không bị dịch bệnh. Đây là loài động vật hoang dã quỹ hiếm đwocj bảo tồn ở các rừng quốc gia nên khi mua con giống anh đã tìm đến cơ sở được cấp giấy phép chăn nuôi, đồng thời trình bài với chi cục Kiểm lâm Sở tại để đảm bảo các điều kiện các mô hình nuôi chim trĩ ở Ba Sao, nhằm góp phần làm đa dạng, phong phú thêm hệ sinh thái khu du lịch Ba Sao. Nguồn thực phẩm từ chim trĩ được đánh giá giàu Protein, Vitamin, Canxi, sắt. Nhưng do tính chất quý hiếm, ngoại hình đẹp nên chim trĩ chủ yếu được nuôi làm cảnh. Trong y học cổ truyền, thịt chim trĩ được sử dụng như một vị thuốc có tính vị ngọt, bình. Công hiệu: Bổ trungích khí, bổ gan mật. Chủ trị tỳ vị hư yếu. Hiện tại anh Kiên đã nhân giống và ghép được 17 ô chuồng, mỗi ô gồm 1 chim trống và 3 chim mái, đang tiếp tục đẻ trứng. Ngoài ra anh đã bán cho bà con với giá 150.000đ/con chim bóc trứng và 600.000đ/chim giống từ 3 tháng tuổi trở lên, thu đủ số vốn đầu tư ban đầu là 45 triệu đồng
Một bài toán dự tính đầy triển vọng trong năm 2011, đàn chim trĩ của anh Kiên nhân lên 70 lần (khoảng trên 3000 con). Nếu bán giá trung bình mỗi con 400.000đ thì tổng số tiền thu được là hơn 1 tỷ đồng, trừ tiền thức ăn mỗi con 1000đồng/ngày và trừ tiền xây dựng chuồng trại anh Kiên còn thu lãi vài trăm triệu đồng. Nhưng điều quan trọng hơn cả là anh đã góp phần bải tồn được nguồn Gen động vật quý hiếm ngay trên quê hương Ba Sao.
Hoàng Hà – Kim Bản
Anh giáo làng trở thành triệu phú nhờ…chim trĩ
(Dân trí) - Là một giáo viên miền núi, bề bộn công việc soạn giao án, rồi lên lớp giảng bài... thế nhưng với lòng say mê đọc sách, báo, đặc biệt là ý chí vươn lên thoát nghèo, anh đã tìm cho mình một hướng làm giàu mới, thu nhập lên tới hơn 500 triệu đồng/năm.
Đến xã Xuân Hòa, huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa, hỏi thầy giáo Trịnh Thành Nam với nghề nuôi chim trĩ, thì người trong xã không ai là không biết tới, đơn giản bởi anh là một thầy giáo nhưng với ý chí vươn lên làm giàu, anh đã tìm ra hướng đi mới cho mình cùng nhiều hộ khác trong xã có cách thoát nghèo.
Anh giáo làng làm giàu từ nghề nuôi chim trĩ.
Vốn là một giáo viên với đồng lương eo hẹp, ngoài thời gian lên lớp anh lại ngồi hàng giờ bên máy tính để tìm hiểu sách báo cũng như tìm kiếm những cách làm giàu mới, có hiệu quả. Bằng lòng ham mê tìm tòi, qua đọc sách báo anh nhận thấy, con chim trĩ hiện là một đặc sản được ưa chuộng trên thị trường, lại dễ nuôi, ít bệnh tật.
Nhận thấy đây là một nghề mới, không mất nhiều thời gian cho việc chăm sóc, lại dễ nuôi, nhu cầu tiêu dùng thịt và trứng chim trĩ trên thị trường ngày một cao, ở một số trung tâm đã lai tạo và đã nuôi có hiệu quả, đầu năm 2010, anh đã mạnh dạn vay mượn anh em, bạn bè được 40 triệu đồng để mua 400 con chim giống về nuôi. Mỗi một gian chuồng được anh giăng lưới cẩn thận để đảm bảo chim không bay ra ngoài, trong chuồng được anh bố trí có chỗ ăn, chỗ đậu cho chim.
Chim trĩ trong trang trại của gia đình anh Nam phát triển nhanh và cho sản phẩm đều đặn.
Thời gian đầu do chưa có kinh nghiệm nên anh Nam đã gặp không ít khó khăn như cách chăm sóc, thành phần dinh dưỡng thức ăn hàng ngày cho chim... Vì thế, một mặt anh tiếp tục tìm hiểu sách báo, mặt khác tranh thủ những lúc không lên lớp anh lại tìm tới các trang trại nuôi khác trong vùng để học hỏi thêm kỹ thuật chăm sóc chim.
Trời không phụ lòng người, dần dần đàn chim của anh ngày một lớn nhanh hơn, ít bệnh tật và bắt đầu cho sinh sản những lứa trứng đầu tiên. Anh Nam tâm sự: “Lúc đầu mới nuôi chim trĩ mình rất bỡ ngỡ, gặp không ít khó khăn, chi phí tăng. Nhờ học hỏi kinh nghiệm qua sách báo nên kỹ thuật chăm sóc dần được điều chỉnh phù hợp nên tỷ lệ chim sinh sản và tỷ lệ phối giống đạt rất cao”.
Theo anh Nam, đây là loài chim có sức đề kháng tốt, ít bị bệnh nên dễ chăm sóc, thức ăn chủ yếu là lúa, gạo cùng với một số thức ăn công nghiệp. Chim sau khi nuôi khoảng 6 tháng là bắt đầu sinh sản, mỗi chim mái cho khoảng 80 trứng/năm. Mỗi năm anh thu được hơn 16.000 quả, với mức giá 40.000 đồng/quả, trừ chi phí lợi nhuận thu về lên tới hơn 500 triệu đồng/năm; tạo việc làm thường xuyên cho nhiều lao động trong xã, thu nhập bình quân hơn 2,5 triệu đồng/tháng. Ngoài chim trĩ anh còn nuôi hơn 100 đôi bồ câu, mỗi năm bán thịt, bán giống anh cũng thu lợi cả chục triệu đồng.
Trứng chim trĩ cho thu nhập hàng năm trên 500 triệu
Trao đổi về kinh nghiệm nuôi chim trĩ, anh Nam cho biết: “Nuôi chim trĩ không khó nhưng người nuôi phải thường xuyên theo dõi, kiểm tra nghiêm ngặt, lựa chọn những trứng đảm bảo để khi ấp giống trứng không bị thiếu trống có như vậy tỉ lệ phôi nở mới cao. Đặc biệt là phải thường xuyên vệ sinh chuồng trại khô thoáng, tránh ẩm ướt để hạn chế bệnh cho chim”.
Không chỉ dừng lại ở việc phát triển chim trĩ giống cho bà con, mà trong thời gian tới anh Nam sẽ cung cấp thêm cho thị trường chim trĩ thịt, hiện nay trên thị trường giá khoảng 380.000/1kg, giá chim non giống mới nở là 75.000/con, đây sẽ là cơ hội lớn giúp nghề nuôi chim trĩ phát triển bền vững, mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Anh Nam đang kiểm tra giống chim bồ câu để nhân rộng cho bà con.
Trao đổi với PV, ông Lê Huy Hoàng, Phó chủ tịch UBND huyện Thọ Xuân cho biết: "Hiện nghề nuôi chim trĩ ở Thọ Xuân vẫn là một nghề mới. Anh Nam là người đặt nền móng đầu tiên cho nghề nuôi chim trĩ ở Thọ Xuân. Mặc dù bước đầu lập nghiệp anh gặp không ít khó khăn, song hiệu quả đã minh chứng cho hướng làm giàu đúng đắn của mình. Trong thời gian tới chúng tôi sẽ xem xét để giúp anh Nam mở rộng quy mô sản xuất, nhằm tạo việc làm cho nhiều lao động địa phương".
Hoàng Văn - Duy Tuyên
Nuôi chim trĩ, nghề mới tại Bình Dương
Công tác trong ngành giáo dục, sau khi nghỉ hưu ông Bùi Thanh Sơn (KP.Bình Minh 1, P.Dĩ An, TX.Dĩ An-Bình Dương), trở về làm Chi hội trưởng Chi hội nông dân KP.Bình Minh 1. Từ đây, ông bắt đầu tìm niềm vui từ vật nuôi, cây cảnh. Một lần tình cờ xem tivi thấy mô hình nuôi chim trĩ cho hiệu quả kinh tế cao, ông mạnh dạn đầu tư nuôi thử nghiệm và đã gặt hái nhiều thành công.
Hiện nay, với mô hình “độc”, ông được Chi cục Kiểm lâm cấp phép, Hội Nông dân phường biểu dương gương sản xuất giỏi năm 2011.
Một lần xem trên tivi, nghe các chuyên gia hướng dẫn cách nuôi chim trĩ, “kết” ngay loài vật này bởi lông chúng khá đẹp, tiếng hót độc đáo. Được một người bạn tại tỉnh Hà Nam sang nhượng cho vài cặp, ông bắt tay vào nuôi thử nghiệm. Không những cẩn thận chăm sóc, ông còn sưu tầm tài liệu, sách báo để có thêm kinh nghiệm, nên chỉ sau thời gian ngắn chim trĩ bắt đầu đẻ trứng.
Do đặc tính của chim trĩ không ấp trứng sau khi đẻ, nên ông trộn chung trứng trĩ với trứng gà cho gà ấp và tỷ lệ trứng nở khoảng 10%. Khi lượng trứng tăng lên, gà ấp không xuể, ông mua lò ấp trứng với mỗi lần ấp trên 200 trứng và đầu tư xây dựng chuồng trại kiên cố, đáp ứng đầy đủ các tiêu chí để có thể chăm sóc tốt loài chim này. Bằng cách đó, tỷ lệ trứng nở cao hơn 30%, số lượng đàn chim trĩ của ông ngày càng tăng. Đến nay, tổng đàn trĩ đã lên đến 80 con.
Ông Sơn bên trang trại nuôi chim trĩ của gia đình
Không chỉ dừng lại ở việc nuôi chim trĩ thương phẩm, ông Sơn còn mạnh dạn nhân giống trĩ con để cung cấp ra thị trường. Thông thường, nuôi khoảng 8 tháng, trĩ mẹ bắt đầu đẻ, bình quân 70 - 80 trứng/năm. Hiện nay, trứng chim được bán với giá 30.000 - 40.000 đồng/trứng, chim non trên 150.000 đồng/con. Riêng trĩ trưởng thành có giá từ 1,5 - 2 triệu đồng/cặp.
Khách hàng của ông chủ yếu là những người chơi chim cảnh, các khu du lịch, vườn thú ở các tỉnh, thành lân cận. Để việc tiêu thụ loài chim này thuận lợi, ông Sơn đã làm thủ tục trình Chi cục Kiểm lâm và được cấp phép gây nuôi động vật hoang dã.
Được biết, ngoài nuôi chim trĩ, ông Sơn hiện đang lai giống gà đông tảo và gà ta, để tạo nên giống gà mới cho năng suất và giá thành cao.
Chia sẻ về kỹ thuật nuôi trĩ, ông Sơn nói, để thực hiện được mô hình nuôi chim trĩ đầu tiên phải biết chọn giống, bởi việc nuôi chim trĩ ở thời kỳ còn nhỏ thường gặp một số khó khăn nhất định liên quan đến chế độ dinh dưỡng, điều kiện môi trường, đặc biệt là khâu vận chuyển. Vì vậy, những người mới nuôi hoặc chưa có kinh nghiệm nuôi trĩ nên hạn chế việc đầu tư mua con giống nhỏ. Người mua nên chọn mua những con chim ở thời kỳ 3 - 5 tháng tuổi.
Với những thành công bước đầu, mô hình nuôi chim trĩ của ông được nhiều bà con nông dân tại địa phương và các huyện, thị, thậm chí các tỉnh lân cận tìm đến tham quan, học hỏi kinh nghiệm. Để có thể đạt hiệu quả kinh tế từ mô hình này, ông Sơn chia sẻ: “Nuôi chim trĩ dễ hơn nuôi gà và hiệu quả kinh tế cao hơn. Những hộ dân đang có xu hướng đầu tư nuôi chim trĩ cần chọn giống chim trĩ có nguồn gốc xuất xứ đáng tin cậy để có được những con giống tốt nhất, bảo đảm đàn trĩ phát triển bền vững, thị trường tiêu thụ ổn định. Bởi vậy, để chọn mua con giống, bà con nên đến các cơ sở, trang trại, trung tâm cung cấp giống đã được cấp phép để mua”.
Theo THIÊN LÝ (Bình Dương Online
Kỹ thuật nuôi chim trĩ
I. GIỚI THIỆU CHIM TRĨ ĐỎ KHOANG CỔ
1.1. Nguồn gốc, phân bố và đặc điểm sinh học
Chim Trĩ đỏ khoang cổ là loài chim thuộc Họ Trĩ (Phasianidae) nằm trong Sách đỏ Việt Nam. Chúng chủ yếu sống tại các khu vực miền bắc Việt Nam (Lạng Sơn, Quảng Ninh …), rừng quốc gia Cát Tiên (Lâm Đồng), khu bảo tồn U Minh Thượng (Kiên Giang), khu bảo tồn thiên nhiên Phong Điền (Thừa thiên Huế) và phía Đông Nam Trung Quốc. Chim Trĩ khoang cổ tên khoa học là Phasianus colchicus Linnaeus. Khi trưởng thành con đực có màu lông sáng, đầu và cổ con đực có màu xanh nhạt với 1 khoang trắng rõ rệt xung quanh vùng cổ, giữa ngực là 1 màu đỏ tía đậm, các vùng bên cạnh có màu sáng hơn, hai bên sườn có màu vàng nhạt (vàng tái) với các vết đen trên diện rộng, lông đuôi có màu vàng oliu (nâu vàng nhạt) với các sọc ngang rộng màu đen. Trong khi đó con cái có nhiều vết đốm rõ rệt, các lông cổ màu nâu và đen kẻ sọc quanh chỏm đầu, với các đường viền có màu hạt dẻ, phần lông phía sau lưng và ngực có màu lốm đốm, phần giữa có màu nâu đen, vùng bụng có màu nâu nhạt. Các lông đuôi rất rõ rệt với các đường gợn sóng dày khít có màu vàng sẫm và đen. Chim trĩ non rất khó phân biệt trống mái, đến hơn 3 tháng mới phân biệt được dựa vào màu lông.
Chim Trĩ có sức sống, khả năng thích ứng và kháng cự mạnh mẽ đối với bệnh tật, sống được ở nhiệt độ từ - 32oC đến 46oC.
Trĩ đỏ lớn rất nhanh và có khả năng đề kháng rất cao nên ít mắc bệnh. Ngoài 8 tháng là trĩ mái bắt đầu đẻ trứng, mỗi con mái trưởng thành trong một năm có khả năng đẻ 90 – 100 quả trứng. Nuôi nhốt trong điều kiện thiếu các phương tiện ấp trứng nhân tạo thì khó thành công vì chim trĩ đỏ không còn nhớ bản năng ấp trứng. Những hộ nuôi ít thì thường cho gà ấp hộ, tỉ lệ ấp nở thành công tới hơn 75%. Nếu được ăn đầy đủ, thêm côn trùng, mỗi con trĩ đỏ mái có thể đẻ đến hai trứng mỗi ngày. Nếu dùng máy ấp nhân tạo với các thông số độ ẩm, nhiệt độ phù hợp thì có thể cho tỉ lệ nở 80 – 85 %. Tại miền Bắc, chim Trĩ sinh sản kéo dài từ tháng 02 đến tháng 09 trong năm.
Một số chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật nghiên cứu tổng kết tại trang trại của Cty CP thực phẩm tiêu chuẩn GAP như sau:[*] Sản lượng trứng/mái/mùa sinh sản : 90 – 100 quả[*] Tỷ lệ trứng giống(%) : 92 – 95%[*] Tỷ lệ phôi (%) : 93 – 95%[*] Tỷ lệ nở/tổng trứng ấp (%) : 75 – 80%[*] Tỷ lệ nuôi sống (%) : 85%[*] Thức ăn bình quân giai đoạn đẻ : 60g – 70g/con/ngày[*] Chim Trĩ đỏ khoang cổ thương phẩm (nuôi 16 tuần tuổi)[*] Tỷ lệ nuôi sống (%) : 80 - 85%[*] Khối lượng cơ thể (g) : 1100 – 1300 g/con[*] Tiêu tốn thức ăn/kg tăng k.lượng cơ thể (g): 4800 – 5000 g

1.2. Giá trị kinh tế
Giá trị kinh tế của chim Trĩ chắc chắn gấp hàng chục lần gà. Trứng trĩ rất thơm ngon, bổ dưỡng. Hiện tại trứng trĩ cũng đang được thị trường rất ưa chuộng nên việc nuôi trĩ lấy trứng đang rất tiềm năng. Và điều quan trọng hơn tất cả là bảo tồn được nguồn gien cùng với việc đưa giống chim quý hiếm này vào phục vụ du lịch thậm chí thương phẩm hóa. Nuôi loài này với mục đích trước tiên là bảo tồn và tiến tới thương mại hóa thì phải nói là siêu lợi nhuận. Giá mỗi con 2,5-3 tháng tuổi là 400.000-500.000 đồng, loại 6 tháng trở lên ~ 1.000.000 đồng, loại đang thời kỳ đẻ trứng ~ 1.500.000 đồng, trứng trĩ hiện đang bán ra thị trường với giá 50 nghìn đồng/quả. Nếu so với nuôi gà thì bà con có thể thấy giá trị của con trĩ lớn thế nào trong khi nuôi trĩ chẳng khác nuôi gà là bao, chuồng trại có thể tận dụng các khu chuồng đã từng nuôi gà, nuôi lợn.
1.3. Giá trị dinh dưỡng và chữa bệnh
Thịt trĩ có hàm lượng protein cao lên tới 30% cao hơn hẳn hàm lượng protein trong thịt bò, thịt gà, thịt lợn, thịt cừu, giàu các vitamin A, C, B1, B2, B3, B6, B12, E, hàm lượng chất béo bão hòa và cholesterol thấp, chứa các amino axit thiết yếu cơ thể con người, trong đó có nhiều amino axit không tổng hợp được trong cơ thể, và giàu nguyên tố vi lượng thiết yếu như germanium (Ge), selenium (Se), kẽm (Zn), sắt (Fe), canxi (Ca). Trong y học cổ truyền, thịt chim trĩ được sử dụng như một vị thuốc, tính vị ngọt, bình. Công hiệu: bổ trung ích khí, tư bổ gan thận, chữa tiêu chảy, chủ trị tỳ vị hư yếu, ít ăn,… Thịt trĩ còn được dùng làm bài thuốc cho phụ nữ sau khi sinh: băng huyết, thiếu máu, suy nhược sau sinh, sa tử cung, và dạ dày, dùng làm thức ăn tăng cường sức khỏe cho người già, hồi phục sức khỏe sau bệnh, dùng cho trẻ em suy dinh dưỡng. Thường xuyên ăn thịt chim trĩ có tác dụng chống suy nhược thần kinh, giảm nguy cơ mắc các bệnh tim mạch vành, bệnh tim phổi và có thể điều trị ngăn ngừa bệnh ung thư (theo Đại học Y của Trung Quốc).
1.4. Giá trị cảnh và Quà biếu
Việc nuôi chim cảnh đối với loài trĩ này hiện đang là một nhu cầu chắc chắn không nhỏ. Do tính chất quý hiếm và nhờ "ngoại hình" rất đẹp của chúng, nên hiện tại một phần nhỏ chim trĩ được nuôi làm cảnh trong các khu biệt thự cao cấp, các khách sạn, dùng làm trưng bày ở các triển lãm, hội nghị, còn phần lớn chim trĩ cung cấp cho các khu bảo tồn động vật hoang dã, vườn Quốc gia, khu du lịch sinh thái. Chim trĩ có thể được dùng làm quà tặng, quà biếu cao cấp, sang trọng, lịch sự vào các dịp lễ Tết, lễ hội, khánh thành, liên hoan,…Dưới thời các triều vua Trung Quốc, chim Trĩ dùng làm lễ vật cống của các nước nhỏ tới các nước lớn. Ở Mỹ, chim Trĩ được dùng làm một trong các món ăn sang trọng để thếp đãi các quan khách trong Nhà trắng.
II. Chọn Giống:
Dựa vào đặc điểm cơ thể để phân biệt chim trống , mái :
Ở cùng lứa tuổi Chim trĩ trống thường có ngoại hình lớn hơn chim trĩ mái . Lúc còn nhỏ rất khó phân biệt chủ yếu dựa vào cảm quan nghề nghiệp và một số biểu hiện nhỏ về sự khác biệt trong tập tính sinh hoạt và ngoại hình chim .Có thể phân biệt bằng mặt thường qua việc so sánh kích thước cở thể , chiều cao chân , hoặc lỗ huyệt
. Khi bước vào thời kỳ 2 -3tháng tuổi chim trống có biểu hiện chuyển dần màu lông từ lâu nhạt sang màu đỏ pha ,lúc này trọng lượng và chiều dài cơ thể lớn hơn chim mái rõ rệt . Trên cổ chim trống hình thành tuyến lông màu đồng phía dưới là màu xanh lá cây hoặc màu tím sáng .Kế tiếp xuất hiện 1 vòng lông cổ màu trắng ( thường gọi là Trĩ Đỏ Khoang Cổ Trắng ) Lông đuôi có màu đỏ và màu hạt dẻ pha trộn với các vệt đen hoặc trắng nhạt .Trên má hình thành hai mào đỏ và hai chỏm lông sừng màu xanh thẫm . Chim Trống trưởng thành có thể nặng tới 1,5 – 2kg , lông đuôi có thể đạt 0,4 – 0,6m ,tùy theo chế độ chăm sóc và mật độ nuôi thả
Chim mái có kích thước nhỏ hơn chim trống .Sau khi thay lông ở thời kỳ 3-5 tháng tuổi chim mái sẽ ổn định ở bộ lông màu tối có những đốm đen ,pha lẫn màu hạt dẻ ., Chim mái có đuôi ngắn hơn chim trống , trọng lượng bình quân của một chim mái trưởng thành khoảng 0,7 – 1,3kg / con
Trong môi trường tự nhiên một chim trĩ đực thường quàn lý và giao phối với rất nhiều chim mái . Với bản tính rất hăng về dục vọng 1 chim trĩ trống có thể đạp liên hồi nhiều chim trĩ mái trong một thời gian ngắn , Chúng tôi đã quan sát và ghi nhận lại có những thời điểm chỉ trong thời gian chưa đầy 5 phút một chim trĩ đực đã đạp lien hồi tới 4 lần / 3 chim mái .Với tốc độ và sự uy hiếp rất mạnh đối phương nên việc nuôi ghép 1 trĩ đực và 1 chim mái để sinh sản là điều tối kỵ , Chim mái sẽ thường xuyên rơi vào trạng thái hoảng loạn , bị dập trứng , hoặc lồi Zoong ( tuột hậu môn ) đôi khi có vấn đề về tâm , sinh lý ảnh hưởng nghiêm trong đến thế hệ chim mới sinh ra . Tuy nhiên nuôi với tỷ lệ mái quá nhiều cũng không tốt cho chim trống và chất lượng phôi trứng . Qua nghiên cứu thực nghiệm Vườn Chim Việt đã ổn định đàn chim bố mẹ sinh sản theo tỷ lệ 1 trống + 3 mái .
Việc nuôi chim trĩ đỏ ở thời kỳ còn nhỏ thường gặp một số khó khăn nhất định lien quan đến chế độ dinh dưỡng , điều kiện môi trường đặc biệt là khâu vận chuyển , Vì vậy những người mới nuôi hoặc chưa có kinh nghiệm nuôi trĩ đỏ nên hạn chế việc đầu tư mua con giống size nhỏ . Người mua nên chọn mua những cá thể chim ở thời kỳ 3 – 5 tháng tuổi hoặc chim hậu bị \
Trọn chim trống có ngoại hình to , cao , đuôi dài , lông mượt , trường chim ,dáng khỏe mạnh ,lanh lợi .Nếu ở thời kỳ trưởng thành chim trống luôn trong tư thế nghiêng mình sung trận
Chim mái : bầu chim , nở hậu , không dị hình , dị tật . Nên mua chim ở những cơ sở gây nuôi uy tín và có nhiều năm kinh nghiệm để lựa được những cá thể chim khỏe mạnh , không bị đồng huyết , cũng như được tư vẫn về kỹ thuật gây nuôi .
Một điểm đáng lưu ý : hiện nay chim trĩ đỏ vẫn nằm trong danh mục động vật hoang dã nên việc gây nuôi vẫn phải có khai báo với chi cục kiểm lâm sở tại .Phần lớn các cở sở nhân giống tự phát trên cả nước hiện vẫn chưa được đăng ký gây nuôi , Đây cũng là một vấn đề khó khăn trong công tác quản lý đối với các cơ quan hữu quan cũng như việc vận chuyển , buôn bán cho các hộ dân . Bà con nên tìm đến các cơ sở gây nuôi được cấp phép để mua con giống với nguồn gốc hợp lệ .Tránh mua trôi lổi trên thị trường sẽ gặp phải không ít khó khăn trong khâu vận chuyển cũng như công tác nhân giống và tiêu thụ sản phẩm về sau
III. KỸ THUẬT CHĂM SÓC NUÔI DƯỠNG CHIM TRĨ ĐỎ KHOANG CỔ
3.1. Yêu cầu chung về chuồng trại:
Vị trí chuồng nuôi phải chọn nơi cao ráo, thoáng mát, cách xa các trại nuôi gia súc, gia cầm khác nhằm hạn chế tối thiểu mức rủi ro do lây nhiễm chồng chéo.
Chuồng trại phải đảm bảo giữ ấm về mùa đông, mát về mùa hè. Nền chuồng phải bằng phẳng, tiện cho công tác dọn vệ sinh, rải chất độn chuồng bằng phôi bào hoặc trấu có thể trộn với cát được phơi khô đã được phun khử trùng. Mặt khác phải đảm bảo thực hiện được biện pháp an toàn sinh học.
Lưu ý : Thường xuyên vệ sinh chuồng trại định kỳ 2- 3 lần / tuần . Phun thuốc khủ trùng định kỳ . Thường xuyên kiểm tra để loại bỏ các vật sắc , nhọn , sợi ninong trong khu vực nuôi đề phòng chim ăn phải sẽ dẫn đến tủng diều , chết.
Trong thời gian qua trên các diễn đàn mạng và truyền hình có giới thiệu 1 số mô hình nuôi chim trĩ đạt hiệu quả cao , tuy nhiên cách thiết kế chuồng trại thường theo phương thức chia nhiều ô với kích thước rất nhỏ , môi ô chỉ nuôi từ 1 -4 cá thể ( ghép bộ ) . Cách làm này tuy hạn chế được việc chim đánh , mổ nhau nhau nhưng lại tốn kém rất nhiều trong khâu thiết kế chuồng trại , máng ăn cũng như công chăm sóc , Mô hình ghép cặp chỉ thích nghi với điều kiện nuôi kiểng ,hoặc diện tích đất nhỏ .Tuỳ mục đích , quy mô sản xuất bà con có thể lựa chọn cách thiết kế chuồng trại sao cho phù hợp nhất với điều kiện sẵn có mà vẫn đảm bảo được yếu tố kỹ thuật trong việc quản lý và chăm sóc chim
3.2. Chuẩn bị dụng cụ và chuồng nuôi
Trước khi đưa chim vào nuôi dù quy mô lớn hay nhỏ cần phải chuẩn bị mọi điều kiện vật chất kỹ thuật như: lồng úm, chụp sưởi, máng ăn, máng uống, chất độn chuồng, tiêu độc khử trùng và chọn người nuôi.
+ Mật độ nuôi úm trong chuồng nhỏ
Chim 0 – 30 ngày tuổi : 40 - 15 con /m2 :
30 – 60 ngày tuổi : 12 – 6 con / m2
60 – 90 ngày tuổi : 4 – 2 con /m2
Sau 90 ngày tuổi có thể đưa chim ra chuồng lớn với mật độ nuôi 1 – 2 con /m2
+ Lồng úm nuôi giai đoạn 1 – 4 tuần tuổi
Lồng úm và dụng cụ chăn nuôi phải được cọ rửa sạch sẽ, để trống chuồng trước khi đưa chim vào nuôi 15 – 20 ngày và phải được xử lý theo đúng quy định về vệ sinh phòng dịch, tường, nền được quét nước vôi đặc nồng độ 40%. Sau đó để khô phun tiêu độc bằng xút 2% (NaOH) với liều 1 lít/m2 hoặc bằng các loại thuốc sát trùng khác như Foocmol 3% phun 2 – 3 lần. Trước khi thả chim Trĩ vào nuôi 1 – 2 ngày phun tẩy uế lại bằng Formalin 3% và đóng kín cửa. Sau khi phun 5h mở cửa cho thông thoáng bay hết mùi thuốc sát trùng rồi mới thả chim. Nếu như chồng trại xây mới thì có thể chỉ dùng thuốc sát trùng Virkon®S của hãng Bayer: pha 100g với 10 lit nước, phun 300ml/m2, phun toàn bộ trại bao gồm nền, tường, bồn ăn uống, không khí, giày ủng. Hầu hết các kiểu úm gia cầm đều phù hợp cho việc úm chim Trĩ.
Trong thời gian úm gột, để tập trung nguồn nhiệt tránh gió lùa sử dụng lồng úm với chiều cao 40 – 50 cm; chiều dài 1,0 – 1,2 m; chiều rộng 0,7 – 0,9 m. Xung quanh được đóng bằng gỗ ép hoặc cót ép, phía trên làm bằng lưới ô nhỏ để tránh chim bay, cửa lồng có thể nằm ở phía trên tuỳ thuộc vào từng điều kiện cụ thể. Lồng này dùng để úm chim non trong 28 – 30 ngày đầu, mỗi lồng như vậy có thể úm từ 50 – 80 chim.
+ Chuồng nuôi giai đoạn 5 – 12 tuần tuổi[*] Giai đoạn này chim Trĩ được nuôi thả ra nền chuồng bê tông để rải trấu hoặc phôi bào với độ dày 5 – 8 cm, có khu đổ cát để chim tắm cát. Chim Trĩ được thả ra ngoài nhằm cho chim vận động, nhưng phải có lưới quây để cho chim khỏi bay đi. Bên ngoài lớp lưới của sân chơi có thể phủ lên những cành cây giúp cho môi trường sống giống với các điều kiện tự nhiên. Giai đoạn này một chim cần 0,5 m2 tổng diện tích sàn bên trong chuồng nuôi, và 2 m2 diện tích nền bên ngoài được dùng cho việc vận động. Sau quá trình ấp, chim trĩ có thể được nuôi khép kín, nhưng cần thiết phải có nơi cư trú đầy đủ. Sân chơi được rào kín bằng lưới để ngăn chim thoát ra ngoài. Để ngặn chặn việc bay mất, kẹp lông cánh khi chúng 4 tuần tuổi hoặc cắt lông cánh ngay ban đầu.[*] Chim trĩ rất dễ kích thích và bay rất tốt, vì vậy chúng nên được nhốt trong chuồng nuôi hoặc các bãi rào được bao bọc cẩn thận. Nếu chúng có thể thoát ra ngoài sau khi sợ hãi, chúng có thể bay rất xa và mất.
+ Giai đoạn sau 12 tuần tuổi
Ở giai đoạn này có thể đưa chim ra chuồng lớn với mật độ nuôi 1 – 2 con/m2. Nên chia chuồng thành nhiều ô khác nhau để tiện cho công tác quản lý và theo dõi bệnh tật cũng như quá trình sinh trưởng và phát triển của chim. Nếu tốn kém trong việc chia chuồng ra nhiều ô nhỏ thì có thể chọn phương án nuôi tập trung (quần thể).
Tường vây có thể xây hoặc dùng lưới B40, lưới mắt cáo. Trên lóc sử dụng các loại tấm lợp pro ximăng hoặc vật liệu rẻ tiền sẵn có tại địa phương, miễn sao đảm bảo chim không thoát ra ngoài.
Nền chuồng được dải một phần hoặc toàn bộ cát, sử dụng loại cát vàng, để chim tắm cát và làm ổ đẻ. Phần còn lại có thể sự dụng bằng nền betông, hoặc trồng cỏ trong khoảng sân chơi.
Mái che có thể lập toàn phần hoặc bán phần miễn sao đảm bảo thoáng về mùa hè, ấm về mùa đông. Với các địa phương khu vực phía bắc thường có rét đậm rét hại vào mùa đông, hoặc sương muối, nên che chắn cẩn thận toàn bộ chuồng nuôi bằng vải bạt và thắp điện sưởi để tránh rét cho chim. Với các tỉnh khu vực phía Nam và Tây Nguyên khí hậu nóng ấm quanh năm hạn chế phải che phủ chuồng trại hơn, tuy nhiên nên lưu ý đến các đợt mưa tạt, gió lùa vì đây là những thời điểm chim rễ mắc các bệnh về hô hấp, tiêu chảy, cầu trùng, tụ huyết trùng, thương hàn,...
Lưu ý: Thường xuyên vệ sinh chuồng trại định kỳ 2-3 lần/tuần. Phun thuốc khử trùng Virkon S định kỳ 1 lần/tuần, tăng cường khi có dịch hoặc khí hậu ẩm ướt. Thường xuyên kiểm tra để loại bỏ các vật sắc, nhọn, sợi nilon trong khu vực nuôi đề phòng chim ăn phải sẽ dẫn đến thủng diều, chết.
+ Làm chuồng cho chim lớn :
Lên chia chuồng thành nhiều ô khác nhau để tiện cho công tác quản lý và theo dõi bệnh tật cũng như quá trình sinh trưởng và phát triển của chim :
Nếu làm chuồng mới để nuôi chim sinh sản có thể thiết kế theo khung cơ bản sau :
Rộng ngang : 3,5 m x dài 6 m x cao 2,5 – 2,8 m .
Với diện tích ô chuồng này có thể nuôi được 20 -25 cá thể chim bố mẹ sinh sản , hoặc 30 - 40 cá thể chim hậu bị
Lưu ý : Thường xuyên vệ sinh chuồng trại định kỳ 2- 3 lần / tuần . Phun thuốc khủ trùng định kỳ . Thường xuyên kiểm tra để loại bỏ các vật sắc , nhọn , sợi ninong trong khu vực nuôi đề phòng chim ăn phải sẽ dẫn đến tủng diều , chết.
3.3 Chăm sóc chim qua các thời kỳ sinh trưởng :
A ) Nuôi chim con ( giai đoạn từ 1- 3 tháng tuổi ) : Chim được nuôi trong lồng nhỏ bằng lưới mắt cáo , Sử dụng bóng điện hoặc đèn sưởi đám bảo nhiệt độ 25 -27 độ C. Không nuôi chim con tại nơi có gió lùa , mưa tạt , Che đậy cẩn thận để đảm bảo an toàn cho chim khỏi các vật nuôi khác tấn công : Chó ,mèo , chuột . Khu vực nuôi thường xuyên được khử trùng định kỳ tối thiểu 15- 20 ngày/ lần .
Thức ăn : sử dụng loại cám viên dùng cho gà con , sử dụng loại máng ăn , uống tự chế hoặc máng dùng cho gà miễn sao đảm bảo vệ sinh . . Nên cho lượng cám và nước vừa đủ, khi chim ăn hết nhấc máng ra vệ sinh và thay nước mới , Tránh để nước lưu lại sang ngày thứ 2 . Với chim nhỏ sức đề kháng yếu ta sử dụng loại nước cất hoặc nước đun sôi để nguội cho chim uống .
B ) Nuôi chim trưởng thành : Chim được nuôi trong lồng lớn sử dụng thức ăn dành cho gia cầm trưởng thành ,gia cầm sinh sản ( cám gà đẻ ) kết hợp với thóc . Tỉ lệ fa tuỳ theo thời kỳ sinh trưởng của chim : có thể dùng tới 60%thóc trong khẩu phần thức ăn . Ngoài ra kết hợp cho ăn thêm các loại rau xanh : rau muống , rau lang , thân cây chuối thái nhỏ ..vv . Hạn chế cho các loại thức ăn lạ : tôm , cua , cá có thể dẫn đến tình trạng chim bị tiêu chảy .
Trong quá trình nuôi đàn thường sảy ra hiện tượng chim cắn , mổ nhau : Vị trí mổ thường tập chung vào mắt ,đỉnh đầu hoặc lỗ huyệt ,Để hạn chế việc này ta có thể sử dụng 1 số phương thức sau :
+ Tách riêng cá thể chim bị đánh , hoặc chim đánh ra khỏi chuồng nuôi từ 3-5 ngày .Sau đó thả lại bình thường
+ Cho ăn bổ sung thêm 1 số khoáng chất : Ca , Zn . Có thể sử dụng loại thuốc trống cắn ,mổ bán tại các tiệm thú y để pha vào thức ăn cho chim
+ Cắt hoặc mài bớt phần mỏ dưới của chim (đây là liệu pháp bắt buộc trong quy trình nuôi công nghiệp theo quy mô lớn ) Việc cắt hoặc mài mỏ dưới của chim không làm ảnh hưởng đến ngoại hình ( vì phần mỏ dưới bị che khuất ) . Không ảnh hưởng đến quá trình sinh sản của chim trống . Vì thực chất chim trĩ đạp mái thời gian diễn ra rất nhanh ( từ 15 -30 giây ) không nhất thiết cần sự hỗ trợ của bộ mỏ , nếu có chỉ cần mỏ trên là đủ . Ngoài ra việc cắt , mài mỏ còn loại bỏ được nguyên nhân ăn trứng của chim . Đây là lý do một số người đã nuôi chim trĩ trong thời gian dài vẫn không thấy chim sinh sản .,Tuy được xem là phương pháp kỹ thuật tiêu biểu và sử dụng rộng dãi trên thế giới song với người nuôi chim trĩ của Việt Nam lại quan niệm chim cắt mỏ là chim Trĩ của Trung Quốc . Thực tế trong danh mục các loại chim không có khái niệm chim trĩ đỏ TQ , chim Trĩ Thái Lan hay chim Trĩ Việt Nam .Mà đó chỉ là vùng phân bố của chim trĩ .Vì vậy chỉ có 1 loại trĩ đỏ khoang cổ duy nhất như hình trên , Khi đưa vào môi trường nuôi nhân tạo thì ngoại hình , trọng lượng của chim do người nuôi quyết định : Ví dụ : Nếu sử dụng 100 % cám tổng hợp làm khẩu phần ăn , chim trĩ sẽ rất nhanh lớn và có thể đạt trọng lượng >2kg / con .Tuy nhiên chất lượng thịt thương phẩm sẽ giảm vì mất dần tính hoang dã của chim , đồng thời sức đề kháng của chim cũng kém đi ,Với chim mái có thể dẫn đến hiện tượng béo lú mà không sinh sản đựoc
Hiện nay trên 1 số diễn đàn mạng có đưa thông tin để phân biệt chim trĩ trung quốc và chim trĩ Việt Nam. Đó là phân biệt dựa vào ngoại hình và mỏ. Thực chất khi chim bố mẹ có cắt mỏ hoặc gẫy mỏ thì thế hệ chim con đẻ ra không hề bị ảnh hưởng, Vì vậy phần lớn khách hàng của Vườn Chim Việt sau khi nhân giống sang thế hệ thứ 2 đã giữ nguyên lại mỏ chim con , Cách làm này chỉ thích ứng cho việc nuôi kiểng với số lượng nhỏ ,nuôi ghép thành từng bộ , không thể nuôi đàn .Đây là quan niệm hoàn toàn sai lầm và thiếu cơ sở khoa học .Và cũng là 1 trong những nguyên nhân khiến nhiều bà con phải bỏ tiền ra mua chim trĩ với giá rất cao vì nghe quảng cáo là chim trĩ Việt ,
Để khảng định được nguồn gốc chim cũng như chất lượng con giống bà con nên đến trực tiếp các trang trại gây nuôi có uy tín , được cấp phép của chi cục kiểm lâm sở tại , Tránh mua tại các tiệm chim hoặc thương lái vì chim mới bị nhập về thường bị nhốt trong môi trường chật , không được chăm sóc có thể mang sẵn mầm bệnh .
+ Máng ăn: [*] Giai đoạn 1 – 4 tuần tuổi: 4 tuần đầu có thể dùng máng nhựa, mẹt tre, máng tôn hình chữ nhật hoặc máng tròn, tuỳ theo kích thước của lồng úm. [*] Giai đoạn 5 – 9 tuần tuổi: từ tuần tuổi thứ 5 trở đi dùng máng ăn có kích thước to hơn (có thể là máng dài hoặc máng tròn). Máng dài có thiết diện hình thang, đáy nhỏ từ 5 – 8 cm, miệng rộng 7 – 13 cm, chiều dài của máng 1 – 1,5 mét; cao 4 – 8 cm có đế vững chắc tránh rơi vãi thức ăn.
Máng tròn có thể bằng nhựa hoặc bằng tôn làm theo kiểu máng P50 Hunggari nâng dần độ cao của máng theo tuổi của chim.
+ Máng uống:
Có nhiều loại song tuỳ thuộc điều kiện từng nơi, từng vùng mà áp dụng cho phù hợp và kinh tế. Thông thường dùng máng tròn (gallon) gồm phần đáy và thân nắp vào nhau làm bằng nhựa, thể tích máng uống tuỳ theo tuổi: Chim non dùng gallon 1 – 2 lít, chim dò hậu bị và sinh sản dùng gallon 4 – 8 lít. Máng uống dài có độ dài tương đương máng ăn nhưng thiết diện nhỏ hơn.
+ Chụp sưởi:
Chim non sau khi nở ra chưa có khả năng điều tiết thân nhiệt do đó phải có hệ thống chụp sưởi để cung cấp nhiệt độ cho chim đến khi chúng có khả năng điều tiết được thân nhiệt phù hợp với nhiệt độ môi trường, có thể dùng dây may so, bóng điện hoặc đèn hồng ngoại tuỳ theo số lượng chim con 01 ngày tuổi mà bố trí hệ thống sưởi cho hợp lý và hiệu quả kinh tế.
+ Chất độn chuồng:
Yêu cầu chất độn chuồng phải có khả năng hút ẩm, có thể dùng phôi bào, trấu, rơm rạ băm nhỏ. Lưu ý chất độn phải được phơi khô không có mùi mốc, phun sát trùng bằng Foocmol 2% hoặc Virkon®S. Cần có cát, sỏi bổ sung trong nền chuồng để có thể tắm hoặc ăn.
3.4. Chọn chim giống
Chọn những con nhanh nhẹn, mắt sáng, lông bông, bụng gọn, chân mập, khối lượng 20 - 23g là đạt yêu cầu. Loại ngay những con khô chân, vẹo mỏ, khèo chân, hở rốn, bụng nặng, lông bết.
3.5. Nhiệt độ, ẩm độ và thông thoáng
Hai tuần đầu tiên chim không tự điều chỉnh thân nhiệt một cách hoàn hảo, do đó các bệnh về đường hô hấp, tiêu hoá dễ phát sinh khi ẩm độ môi trường lên cao sẽ ảnh hưởng rất lớn đến tỷ lệ nuôi sống và khả năng sinh trưởng của chim. Thời điểm khi chim xuống chuồng nên để nhiệt ở 350C, sau nhiệt độ được giảm dần xuống 300C khi chim được 3 tuần tuổi.
Từ tuần tuổi thứ 2 cần chú ý đến tốc độ mọc lông ở chim để điều chỉnh nhiệt độ cho thích hợp. Trong quá trình nuôi phải quan sát phản ứng của chim đối với nhiệt độ:[*] Nếu thấy chim tập trung gần nguồn nhiệt, chen lấn chồng đống lên nhau là chuồng nuôi không đủ nhiệt, chim bị lạnh.[*] Nếu chim tản ra xa nguồn nhiệt, nháo nhác, kêu, khát nước, há mỏ để thở là bị quá nóng cần phải điều chỉnh giảm nhiệt độ.[*] Nếu chim tụm lại một phía là bị gió lùa rất nguy hiểm, cần che kín hướng gió thổi.[*] Khi đủ nhiệt, chim vận động ăn uống bình thường, ngủ, nghỉ tản đều lồng úm.
Chim con cần chiếu sáng 24/24 giờ trong 4 tuần đầu, sau 5 – 9 tuần giảm thời gian chiếu sáng đến 16h, từ tuần thứ 7 – 9 lợi dụng ánh sáng tự nhiên, đảm bảo cường độ ánh sáng 3W/m2 là đủ.
3.6. Nước uống
Nước là nhu cầu đầu tiên của chim khi mới xuống chuồng. Cần cung cấp nước sạch, tốt nhất là pha thêm 5g đường Glucoz và 1g Vitamin C/lít nước cho những ngày đầu, nước uống cho chim không được lạnh tốt nhất là hơi ấm 18 – 210C trong vài ngày đầu.
Sử dụng chụp nước tự động bằng nhựa 0,6 – 0,8 lít/50 chim non. Vị trí đặt máng uống phải bố trí cho chim dễ tiếp cận và không bị máng ăn che khuất. Tuân thủ cho chim uống nước trước, sau 2 – 3 giờ mới cho thức ăn.
3.7. Thức ăn và kỹ thuật cho ăn
Cũng như chăn nuôi các loài gia cầm, chăn nuôi chim cũng như vậy. Thức ăn của trĩ là cám tổng hợp (loại không có tăng trọng), ngô xay, thóc, đậu tương, rau xanh, cỏ,... Ngoài 2 tháng có thể cho trĩ tập ăn thóc bằng cách trộn 10 – 20 % vào khẩu phần ăn. Ở giai đoạn 5 – 8 tháng có thể trộn đến 50 % thóc vào khẩu phần ăn.
Việc chăm sóc, nuôi dưỡng thoả mãn đầy đủ các nhu cầu sinh lý đòi hỏi phát triển cơ thể ở mỗi giai đoạn sẽ khai thác tối đa tiềm năng di truyền của giống, đạt nhanh đến khối lượng giết mổ càng sớm càng tốt.
Chim Trĩ nuôi lấy thịt được chia ra các giai, đoạn 0 – 4 tuần tuổi; 5 – 9 tuần tuổi và 10 → giết mổ (10 – 16 tuần)
Nhu cầu dinh dưỡng cho Chim Trĩ thương phẩm nuôi thịt có thể tham khảo qua bảng 2.
Sau khi chim được uống nước 2 – 3 giờ thì mới cho ăn, thường cho ăn theo bữa. Thức ăn được trải đều vào nhiều khay tuỳ thuộc quy mô đàn để tránh sự tranh giành thức ăn giữa các con trong đàn. Chỉ nên cung cấp lượng thức ăn vừa đủ, một ngày đêm cho ăn 9 – 10 lượt để thức ăn luôn mới thơm, hấp dẫn tính ngon miệng và tránh lãng phí.
Một số điều cần lưu ý: [*] Thức ăn được phối chế cân đối đảm bảo đủ dinh dưỡng cho nhu cầu phát triển của chim trong từng giai đoạn.[*] Khẩu phần ăn có thể phối chế đa nguyên liệu, sử dụng thức ăn bổ sung động vật, thực vật, Premix khoáng vi lượng và Vitamin.[*] Không sử dụng các nguyên liệu bị mốc, nhiễm độc tố Afratoxin hoặc bột cá mặn (có hàm lượng muối cao).[*] Khẩu phần thức ăn được cân đối đủ các chất dinh dưỡng đáp ứng nhu cầu phát triển trong giai đoạn nuôi, thức ăn phối chế đa nguyên liệu, sử dụng đạm nguồn gốc động vật, thực vật, Premix Vitamin, khoáng vi lượng v.v.[*] Dùng đậu tương phải rang chín chim mới tiêu hoá được, nếu chín không đều chim ăn vào sẽ bị rối loạn tiêu hoá (đi ỉa).
3.8 Thời kỳ đẻ trứng và kỹ thuật ấp nở :
Chim trĩ giống bình quân sau khi nuôi đến 8 tháng tuổi có thể đẻ trứng . Thời gian đẻ thường từ đầu tháng 1 âm lịch đến khoảng tháng 4 âm lịch , Sau đó chim trĩ ngừng đẻ khoảng 1 tháng rồi tiếp tục đẻ lứa thứ 2 đến khoảng tháng 8 âm lịch thì nghỉ .Bình quân mỗi năm 1 chim mái có thể đẻ từ 68 -80 trứng .Với các tỉnh phía bắc nước ta nơi có mùa đông lạnh và kéo dài chim thường đẻ muôn hợn ,thường mùa đẻ chỉ bắt đầu khi vào mùa xuân ấp áp , Các tình khu vực phía Nam nơi có thời tiết nắng ấm mùa đẻ của chim trĩ thường sớm hơn và kéo dài hơn , Ngoài ra số trứng , thời gian đẻ còn phụ thuộc vào kỹ thuật nuôi , chế độ cho ăn , và quản lý vật nuôi . Nếu cho ăn tặng lượng đạm động vật , canxi và sử dụng 1 số tác nhân phụ có thể cho chim trĩ đẻ 2 quả / ngày hoặc đẻ quanh năm theo ý thích của người nuôi . Tuy nhiên phương pháp này chỉ áp dụng cho trường hợp khai thác trứng chim trĩ làm thương phẩm . Việc nhân giống chim không nên áp dụng , sẽ ảnh hưởng tới sức khỏe sinh sản của chim bố mẹ cũng như chất lượng con giống sinh ra
Chim trĩ trong tự nhiên không tự ấp trứng , chim thường đẻ nhờ vào tổ chim khác . Vì vậy khi đưa vào nuôi trong môi trường nhân tạo ta phải dùng tác nhân phụ để ấp trứng cho chim .Tỉ lệ nở phụ thuộc vào 2 yếu tố : là chất lưng phôi trứng , và kỹ thuật ấp
. Thường có 2 cách cơ bản để ấp trứng trĩ

a) Dùng vật nuôi khác có thân nhiệt và điều kiện ấp nở tương tự ( Thường dùng , gà mái hoa mơ , gà tre ..vv ) . Cách ấp này đơn giản như ấp trứng gia cầm thông thường tuy nhiên cho tỷ lệ thành công thấp và khó áp dụng cho nuôi quy mô lớn
b) Dùng máy ấp : Sử dụng loại máy ấp trứng gia cầm thông thường để ấp . Thời gian ấp nở khoảng 22 -23 ngày . Hiệu chỉnh nhiệt độ , độ ẩm tùy theo giai đoạn
:Nhiệt độ ấp trong tuần đầu : 37,5 độ C , Độ ẩm 55 %
Tuần thứ 2 Nhiệt độ 37,3 độ C , Độ ẩm 60 %
. Tuần thứ 3 trở đi nhiệt độ 37 độ , Độ ẩm 75 %
( Lưu ý sử dụng hoàn toàn nước cất để tạo độ ẩm , không dùng nước bẩn , có chứa tạp chất sẽ làm ảnh hưởng đến quá trình bay hơi của nước )

Các tia máu hình thành trong trứng trĩ thường rất mờ và khó phân biệt vì vậy đừng vội bỏ trứng ra khỏi lò xớm , Bản thân bên trong trứng trĩ cũng có chất hóa học bảo quản trứng rất tốt . Thường thì những quả trứng không có sống mà ấp tới 15 ngày vẫn không bị thối như trứng gà trứng vịt , Vẫn có thể ăn bình thường mà không nguy hại cho sức khỏe
Sau nhiều năm nuôi thực nghiệm đến nay Vườn Chim Việt đã thành công trong phương thức ấp nở đạt tỉ lệ 70 -80 % . Tỉ lệ nuôi sống thành công sau ấp nở đạt 85%.

Trong thời gian tới Vườn Chim Việt sẽ đầu tư nghiên cứu quy trình thụ tinh nhân tạo cho trĩ đỏ để mang lại hiêụ quả sản xuất con giống tốt hơn đáp ứng cho sức mua của thị trường nội địa

3.9. Mật độ
Tuỳ thuộc vào điều kiện chuồng trại, khí hậu mà quyết định mật độ đàn nuôi.
Nuôi trên lồng:
1 – 4 tuần tuổi: 30 – 40 con/m2
Nuôi trên nền sàn: sử dụng chất độn chuồng, có sân chơi:
5 – 9 tuần : 6 – 15 con/m2
10 – 16 tuần tuổi : 3 – 5 con/m2
3.10. Vệ sinh phòng bệnh
Khả năng chim Trĩ bị nhiễm, mắc các bệnh là rất cao. Với phương châm phòng bệnh là chính, đảm bảo nghiêm ngặt những quy định về vệ sinh phòng bệnh, sử dụng quy trình vệ sinh phòng bệnh tuỳ thuộc vào tình hình dịch tễ của từng địa phương. Phải quan sát theo dõi đàn chim thường xuyên như: Trạng thái ăn, ngủ, thể trạng, âm thanh tiếng thở, chất bài tiết v.v. để bất kỳ một dấu hiệu bất thường nào đều được xử lý kịp thời. Cần thiết phải kiểm tra đàn chim dựa trên các đặc điểm hàng ngày như sau:[*] Lắng nghe âm thanh bất thường hoặc thiếu vắng âm thanh hàng ngày[*] Trạng thái đàn chim (uể oải hay hung hăng)[*] Ngửi để xem có mùi khai hay sự kém thông thoáng.
Trong chuồng chỉ nuôi chim không nuôi chung với các động vật khác. Định kỳ diệt trừ các loài động vật gặm nhấm, chim hoang và côn trùng có hại khác. 2.10. Chăm sóc nuôi dưỡng
Chim được cho ăn tự do 24h/24h+ trong 4 tuần đầu, ban ngày dùng ánh sáng tự nhiên, đêm thắp điện sáng để chim ăn đêm. Trong điều kiện thời tiết và nhiệt độ thuận lợi (ấm áp khô ráo) sau 4 tuần tuổi (nếu thời tiết lạnh dưới 200C thì sau 6 - 7 tuần tuổi) có thể cho chim vận động giống như trong tự nhiên để giúp cơ săn chắc nâng cao chất lượng thịt.
Mức tiêu thụ thức ăn
Số lượng thức ăn được chim trĩ tiêu thụ sẽ thay đổi phụ thuộc vào các yếu tố như dạng thức ăn, phương thức cho ăn, thành phần dinh dưỡng và các điều kiện thời tiết. Một con chim trĩ từ 1 ngày tuổi cho tới khi xuất bán tại thời điểm 16 tuần tuổi sẽ ăn khoảng 5 kg thức ăn. Tại độ tuổi này, các con trống khối lượng khoảng 1,3kg và con mái là 1,0kg.
IV. MỘT SỐ BỆNH THƯỜNG GẶP
Các bệnh thường gặp khi nuôi chim trĩ đỏ :
- Bệnh tiêu chảy , Ecoli : chủ yếu sảy ra sau quá trình vận chuyển hoặc môi trường nuôi không đảm bảo : Dùng Vaccin đặc trị Ecoli cho gia cầm tiêm hoặc cho uống ( liều lượng bằng 2,5 lần hướng dẫn trên bao bì )
- Bệnh về đường hô hấp : ( hen phổi , nấm phổi ) : Chim có hiện tượng thở khò khè , chảy nước mũi ,thở ngáp rồi chết. Nguyên nhân do thay đổi thời tiết , hoặc mật đồ nuôi dày , Cách trị : Dùng thuốc đặc trị hen của gà nhỏ trực tiếp với liều dùng bằng 2 lần hướng dẫn sử dụng trên bao bì , Điều chỉnh lại mật độ nuôi , vệ sinh chuồng nuôi bằng thuốc khử trùng ,
- Bệnh đau mắt ( sưng mặt ) : Biểu hiện : Mắt chim có màng đục nhắm lại , 1 trong hai bên má sưng : Chim bị mù dẫn đến không thể tự ăn , uống được mà chết : Cách trị : Dùng thuốc nhỏ mắt của người nhỏ từ 3 – 5 giọt . Kết hợp với tiêm nếu phát hiện trong mắt có giun , sán.
Ngoài ra trong quá trình nuôi chim trĩ thường mắc 1 số bệnh khác ít thấy biểu hiện trên gia cầm thông dụng . Để đảm bảo tỉ lệ nuôi thành công thì khâu vệ sinh chuồng trại là 1 yếu tố rất quan trọng , Đồng thời những cá nhân mới gây nuôi nên đến trực tiếp các trang trại , cá nhân có nhiều năm kinh nghiệm nuôi trĩ để tham khảo học tập kinh nghiệm .
4.1. Bệnh do virút gây ra
4.1.1. Bệnh Newcastle
- Đặc điểm chung:
Do virút gây ra, là bệnh đặc biệt nguy hiểm đối với gia cầm và chim. Lây lan nhanh, mạnh. Gây ốm và chết nhiều ở mọi lứa tuổi. Bệnh xảy ra quanh năm. Không thể chữa bằng thuốc, chỉ có thể phòng bằng vacxin.
- Đường lây lan:
Bệnh lây lan chủ yếu qua đường hô hấp và tiêu hoá. Do tiếp xúc giữa nhBng con ốm và con khoẻ. Do bụi, gió và không khí có mầm bệnh. Do phương tiện vận chuyển, thức ăn nước uống nhiễm mầm bệnh. Do dụng cụ chăn nuôi thú y nhiễm mầm bệnh. Do công nhân chăn nuôi, khách thăm quan đến từ vùng có bệnh. Do động vật, chim mang mầm bệnh.
- Triệu chứng (những biểu hiện bên ngoài):
Chim ủ rũ mào thâm, ăn ít, chảy nhớt dãi. Diều căng, đầy hơi. Khó thở kèm theo tiếng kêu “tóc – tóc” nhất là ban đêm. Tiêu chảy, phân loãng có màu trắng, xanh, cứt cò. Chim ốm chết nhiều. Con sống sót để lại di chứng thần kinh, nghẹo cổ, đi vòng quanh, mổ thức ăn không chính xác. - Bệnh tích (những biểu hiện bên trong):
Xuất huyết ở lỗ huyệt, thanh khí quản có nhiều dịch nhầy và xuất huyết. Dạ dày tuyến xuất huyết và loét. Thành ruột xuất huyết và loét hình cúc áo. Van hồi manh tràng xuất huyết

- Biện pháp phòng trị:
+ Phòng bệnh: không nên nuôi chung các lứa tuổi. Đảm bảo chuông nuôi, thức ăn, nước uống sạch sẽ ăn uống đủ chất đủ lượng. Biên pháp hữu hiệu nhất là sử dụng vacxin phòng bệnh theo lịch ở các độ tuổi khác nhau.
+ Điều trị bệnh:
Khi có bệnh Newcastle xảy ra nên thông báo ngay cho cán bộ thú y cơ sở. Dùng vacxin cho những đàn chưa mắc bệnh, bổ xung thuốc bổ tăng sức đề kháng cho đàn chim. Cách ly đàn chim ốm, đốt xác chim ốm, chết hoặc chôn rồi rắc vôi bột. Không bán chạy chim ốm. Không được đến thăm các nơi nuôi chim khác. Sát trùng chuồng nuôi, sân thả chim, dụng cụ chăn nuôi và khu vức xung quanh hàng ngày. Thu dọn chất thải phân đem đốt hàng ngày. Rắc vôi bột để cách ly chuồng nuôi với khu vực xung quanh và rắc ở lối ra vào chuồng nuôi, Khi đã nổ bệnh có thể đưa vacxin trở lại nhưng tỷ lệ khỏi bệnh không cao.
Qua nghiên cứu các tài liệu khoa học và thực tế gây nuôi bảo tồn phát triển tại trang trại của Công ty cổ phần thực phẩm tiêu chuẩn GAP thấy rằng chim trĩ rất khó lây nhiễm các bệnh như bệnh Gumboro và bệnh đậu (Trang trại chúng tôi không tiêm phòng các Vacxin Gumboro và đậu gà, và cũng chưa thấy bất kỳ triệu chứng nào của các bệnh này). Trong khi đó bệnh Newcastle thì đặc biệt nguy hiểm đối chim trĩ, cần phải tiêm phòng đầy đủ, đúng liều lượng (2 lần Lasota trong thời gian úm 1 tháng, tiêm Newcastle lần 1 vào tháng thứ 2, lần 2 vào tháng 4, lần 3 vào cuối tháng 7).
4.1.2. Cúm A/H5N1
Tiêm chủng theo lịch của thú y địa phương.

4.2. Bệnh do vi khuẩn gây ra
4.2.1. Bệnh tụ huyết trùng
- Đặc điểm của bệnh:
Do vi khuẩn gây nên. Chim các lứa tuổi đều mắc. Bệnh gây chết nhanh và nhiều trong cùng một thời gian. Bệnh hay tái phát trong cùng một khu vực. Có thể phòng bằng vacxin và điều trị bằng kháng sinh.
- Đường lây lan:
Qua đường tiêu hoá, hô hấp, do thức ăn nước uống nhiễm mầm bệnh, do tiếp xúc giữa con ốm với con khoẻ.
- Triệu chứng (những biểu hiện bên ngoài):
Tuỳ thuộc vào mức độ gây bệnh mà mầm bệnh có thể phát ra nhanh hay chậm. Trường hợp bệnh cấp tính: Chim chết đột ngột, đang đi lăn đùng ra chết. Chết khi đang nằm trong ổ đẻ. Trường hợp bệnh mãn tính: chim ủ rũ, bỏ ăn đi lại chậm chạp, nước nhầy chảy ra từ miệng, đôi khi lẫn máu, tích tím bầm. Phân lỏng hoặc xanh đôi khi có dính máu. Khó thở, chết do ngạt thở, xác tím bầm, máu đông kém. Nếu bệnh kéo dài, viêm kết mạc mắt, tích sưng, khớp sưng đi lại khó khăn.
- Bệnh tích (biểu hiện bên trong):
Tụ huyết ở các cơ quan nội tạng. Gan sưng có nốt hoại tử lấm tấm trắng. Bao tim tích nước, xuất huyết vành tim, có dịch nhầy trong khớp.
- Biện pháp phòng trị:
+ Phòng bệnh
Vệ sinh sạch sẽ, giữ chuồng luôn khô ráo, thức ăn nước uống đảm bảo hợp vệ sinh, định kỳ sử dụng kháng sinh trộn thức ăn 3-5 ngày /lần.
Dùng vácxin phòng bệnh không bảo hộ tốt, vì hiệu giá của vacxin này trong thực tế không cao.
+ Điều trị: Có thể dùng các loại kháng sinh sau:
- Tetracylin, Streptomycine, Coxsmix forte, Neotezol, Ampicillin, Enrofloxacin. Liều lượng và thời dùng theo hướng dẫn ghi trên nhãn thuốc.
4.2.2. Bệnh cầu trùng
- Đặc điểm chung:
Bệnh do một loại ký sinh trùng đặc biệt gọi là cầu trùng có kích thước rất nhỏ gây nên. Chim mọi lứa tuôỉ đều mắc, nặng nhất là giai đoạn 2 - 8 tuần tuổi. bệnh xảy ra quanh năm nặng nhất vào vụ xuân hè khi thời tiết nóng ẩm. Chim nuôi nhốt chật chội, đệm lót chuồng ẩm ướt là điều kiện thụân lợi để bệnh bùng phát .
- Đường lây lan :
Qua thức ăn, nước uống, chất độn chuồng .v.v. Noãn nang cầu trùng có sức đề kháng cao trong môi trường, có thể tồn tại hàng tháng trong điều kiện bình thường, khó bị tiêu diệt bằng các loại thuốc sát trùng, bị tiêu diệt chậm dưới ánh nắng mặt trời, dễ bị tiêu diệt ở nhiệt độ cao 600C.
- Triệu chứng (biểu hiện bên ngoài):
Con vật ủ rũ bỏ ăn uống nhiều nước, phân lỏng, máu tươi hoặc có màu sôcôla sẫm. Chim con có thể chết hàng loạt nếu không điều trị kịp thời. Chim trưởng thành chậm lớn, chết rải rác kéo dài.
- Bệnh tích (biểu hiện bên trong):
Cầu trùng manh tràng thì manh tràng sưng to chứa đầy máu. Cầu trùng ruột non thì ruột non căng phồng bên trong chứa đầy dịch nhầy lẫn máu.
- Biện pháp phòng trị:
+ Phòng bệnh: Đảm bảo các biện pháp vệ sinh phòng bệnh. Đặc biệt chú ý giữ cho lớp độn lót chuồng, sân chơi luôn khô ráo. Không nên nuôi chung chim các lứa tuổi, sử dụng NaOH nóng 2% hoặc quét vôi mới tôi để sát trùng nền chuồng trước khi đưa chim vào nuôi. Rắc vôi bột trước cửa chuồng, định kỳ dùng thuốc ức chế cầu trùng để phòng bệnh cho chim có thể sử dụng một số các loại thuốc sau: Octamit, Rigecoxcin. ESB3 .v.v. hoặc có thể dùng Virkon®S phun định kỳ 1 lần/tuần. Khi thời tiết ẩm ướt hoặc vào thời điểm có dịch bệnh gia cầm thì tăng cường 2 lần/tuần.
+ Điều trị: Dùng các loại thuốc như trên với liều điều trị theo hướng dẫn của nhà sản xuất. Sử dụng kết hợp vitamin C, K và chất điện giải. Nhốt riêng những con bị bệnh nặng cho uống thuốc trực tiếp vào miệng sẽ nhanh khỏi. Thay độn chuồng mới, rắc vôi vào chỗ ẩm ướt.
4.3. Quy trình sử dụng thuốc và Vacxin phòng bệnh cho chim trĩ đỏ nuôi tại trang trại của Cty CP thực phẩm tiêu chuẩn GAP Trước khi bắt chim về 01 ngày, dùng Longlife hoặc Farm Fluid, Chloramin B, HanIodin,… phun sát trùng xung quanh chuồng, toàn bộ không khí và bề mặt trong chuồng: 100 ml/25 lít/82 m2 hoặc phun Virkon®S, pha theo hướng dẫn.
Chú ý:
- Kháng sinh phổ rộng có thể dùng một số loại sau (dùng luân phiên để tránh nhờn thuốc): Genta Costrim, Vinacoc ACB (trị cầu trùng), CRD Stop, Ampicoli.
- Định kỳ mỗi tuần 1 lần sát trùng chuồng bằng Virkon S (10g/4 lít nước/14m2)
- Tiêm chủng cúm A/H5N1 theo lịch của thú y địa phương.
- Có thể cho trĩ uống nước tỏi 1 lần/tuần: Đập dập 2-3 củ tỏi sống, để trong không khí 15-20 phút sau đem hoà với 10-15/lít nước đem cho chim uống, bã tỏi rải quanh chuồng cho chim ngửi mùi. Các chất kháng sinh thực vật có trong tỏi tiêu diệt mạnh virus cúm gia cầm.
- Cho chim uống B-complex 2 lần/tuần.
- Cho chim uống Vitammin C 2 lần/tuần.
- Vào những ngày không ghi trong lịch trình, dùng A-T 112 hoạc Multisol G nhằm tăng sức đề kháng và giúp chim khỏe mạnh.
- Vào những ngày nắng nóng, cho uống A-T 111 (1 g/ 4 lít nước) và A-T 110 (1g/4 lít nước). Chú ý cho uống vào buối sáng.
- Có thể dùng Vitamin C thay thế A-T111.
Hình ảnh 1 số loài chim trĩ :
chim trĩ giống , bán chim tri giong , ban trĩ đỏ , tri do , trĩ xanh , 7 bảy màu , bay mau , công
Tiền Giang , Long An , Cần Thơ , Bạc Liêu , Sóc Trăng , Đồng Nai - TP Biên Hòa , Bà Rịa - Vũng Tàu , TP Đà Lạt - Lâm Đồng , Bình Thuận , Ninh Thuận , Khánh Hòa , Bình Định , Phú Yên , Quảng Ngãi , Quảng Nam , Đà Nẵng , Thừa Thiên Huế , Vĩnh Phúc , Hậu Giang , Đồng Tháp , Cà Mau , Gia Lai - Kon Tum , Kiên Giang , Vĩnh Long , Trà Vinh , Bình Dương , Bình Phước , Tây Ninh , An Giang , Bắc Kạn , Bắc Giang , Bắc Ninh , Bến Tre , Cao Bằng , Đắk Lắc , Đắk Nông , Điện Biên , Gia Lai , Hà Giang , Hà Nam , Hà Tỉnh , Hải Dương , Hải Phòng , Hòa Bình , Hưng Yên , Kon Tum , Lai Châu , miễn phí TP HCM , Hà Nội, Hà Tĩnh , Nghệ An , Quảng Bình , Quảng Trị , Thanh Hóa , An Giang , Bắc Giang , Bắc Kan , Bắc Ninh , Cao Bằng , Điện Biên , Hà Giang , Hà Nam , Hải Dương , Hưng Yên , Lai Châu , Lào Cai , Lạng Sơn , Nam Định , Ninh Bình , Phú Thọ , Quảng Ninh , Sơn La , Thái Bình , Thái Nguyên , Tuyên Quang , Vĩnh Phúc , Yên Bái