Kon Tum qua các thời kỳ lịch sử
Từ một làng nhỏ của người Bana cạnh dòng sông Đăk Bla, đồng bào các dân tộc Xơ Đăng, Bana, Gia Rai, Jẻ - Triêng, Brâu, Rơ Măm,... đến tụ cư, sinh sống, cho đến vị thế quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội của mảnh đất Tây Nguyên bao la, hùng vĩ,... mảnh đất Kon Tum đã trải qua biết bao biến động và thăng trầm với nhiều lần thay đổi tên gọi và địa giới hành chính. Ngược dòng thời gian, tìm hiểu về những giai đoạn lịch sử mà Kon Tum đã đi qua, càng thấy trân trọng hơn ý chí, nghị lực, lòng quả cảm và sức mạnh nội lực của đất và người nơi đây trong hành trình vươn lên cùng đất nước.
Tên gọi Kon Tum
Một góc TP Kon Tum
|
Do
vị trí đặc biệt, Kon Tum là vùng đất bằng, được dòng Đăkbla
uốn quanh bồi đắp phù sa màu mỡ. Trải qua những biến động,
thăng trầm của lịch sử, vùng đất này có nhiều biến đổi, đồng
bào các dân tộc tụ hội về đây ngày một đông. Người Kinh khi
đến Tây Nguyên cũng chọn vùng đất Kon Tum làm nơi định cư. Từ
đó, Kon Tum trở thành vùng đất cộng cư của nhiều dân tộc.
Phát
huy những thuận lợi về điều kiện tự nhiên với sự cần cù lao
động của con người, vùng đất Kon Tum ngày càng phát triển
thịnh vượng, không chỉ một làng mà nhiều làng, bao quát cả
vùng đất đai rộng lớn. Vùng đất này khi thành lập thị xã
cũng mang tên gọi chính thức là Kon Tum. Khi đơn vị hành chính
cấp tỉnh được thành lập, Kon Tum vẫn chính thức được dùng làm
tên gọi của tỉnh. Đây là vùng địa lý hành chính được hình
thành sớm nhất ở Tây Nguyên.
Địa giới Kon Tum qua các thời kỳ lịch sử
Kon
Tum thuở xưa còn rất hoang vắng, người thưa, đất rộng. Các dân
tộc bản địa gồm Xơ Đăng, Bana, Gia Rai, Jẻ - Triêng, Brâu, Rơ Măm.
Mỗi dân tộc gắn với một vùng cư trú khác nhau. Nét đặc biệt
trong thiết chế xã hội cổ truyền của các dân tộc ở tỉnh Kon
Tum là tổ chức xã hội duy nhất chỉ có làng. Làng được xem như
đơn vị hành chính mang tính bao quát và cụ thể, chi phối mọi
hoạt động trong đời sống xã hội. Mỗi làng mang tính độc lập
riêng biệt, do một chủ làng là người có uy tín nhất trong làng
đứng đầu.
Trong
giai đoạn khởi nghĩa Tây Sơn (1771 - 1786), ba anh em Nguyễn Nhạc,
Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ đã xây dựng mối quan hệ đoàn kết với
các dân tộc vùng này.
Năm
1840, dưới thời vua Thiệu Trị, triều đình Huế lập Bok Seam -
một người Bana làm quan cai trị các bộ tộc Tây Nguyên, đồng
thời cho phép người Kinh và người các dân tộc được phép tự do
quan hệ mua bán, trao đổi. Từ đây, những lái buôn người Kinh bắt
đầu đến với Tây Nguyên để mua bán, trao đổi hàng hóa.
Trong
thời gian này, người Pháp cũng tìm đường đến Kon Tum để
truyền đạo. Trong giai đoạn 1841 - 1850, thực dân Pháp đã đặt
được cơ sở Thiên chúa giáo đầu tiên ở Kon Tum.
Năm
1867, thực dân Pháp bắt đầu tấn công xâm lược Kon Tum - Tây
Nguyên. Bằng những thủ đoạn thâm độc nhằm chia rẽ các dân tộc
trong vùng, thực dân Pháp đã thôn tính Kon Tum và Tây Nguyên.
Năm
1892, thực dân Pháp đặt tại Kon Tum một tòa đại lý hành chính
đầu tiên do một cố đạo người Pháp là Vialleton, còn gọi là
cha Truyền cai quản.
Ngày
4-7-1904, thực dân Pháp thành lập tỉnh Plei Ku Der, bao gồm hai
tòa đại lý hành chính: một tòa ở Kon Tum (trước đó thuộc
tỉnh Bình Định) và một tòa ở Cheo Reo (trước đó thuộc tỉnh
Phú Yên).
Ngày
25-4-1907, thực dân Pháp chính thức bãi bỏ tỉnh Plei Ku Der.
Toàn bộ đất đai của tỉnh Plei Ku Der gồm hai tòa đại lý hành
chính Kon Tum và Cheo Reo được sáp nhập trở lại hai tỉnh Bình
Định và Phú Yên như trước đó.
Ngày
9-2-1913, thực dân Pháp chính thức thành lập tỉnh Kon Tum, bao
gồm đại lý hành chính Kon Tum tách ra từ Bình Định, đại lý
hành chính Cheo Reo tách ra từ Phú Yên, đại lý hành chính Buôn
Ma Thuột (Buôn Ma Thuột trước đó là một tỉnh riêng, nhưng đến
năm 1913 giảm từ tỉnh xuống thành đại lý hành chính, sáp nhập
vào tỉnh Kon Tum).
Năm
1917, thực dân Pháp thành lập tòa đại lý hành chính An Khê,
gồm huyện Tân An và khu vực người dân tộc thiểu số đặt dưới
quyền cai trị của công sứ tỉnh Kon Tum.
Ngày 2-7-1923, đại lý Buôn Ma Thuột được tách khỏi tỉnh Kon Tum để thành lập tỉnh Đắk Lắk.
Ngày
3-12-1929, thành lập thành phố Kon Tum (thực tế lúc đó chỉ là
thị trấn, gồm tổng Tân Hương và một số làng dân tộc thiểu số
phụ cận).
Ngày
25-5-1932, tách đại lý Pleiku ra khỏi tỉnh Kon Tum, thành lập
tỉnh Pleiku (nay thuộc tỉnh Gia Lai). Đến ngày 9-8-1943, đại lý
hành chính An Khê được tách khỏi tỉnh Kon Tum, sáp nhập vào
tỉnh Pleiku. Tỉnh Kon Tum lúc bấy giờ chỉ còn lại tổng Tân
Hương và toàn bộ đất đai vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Tổng
Tân Hương là tên gọi tiền thân của thành phố Kon Tum hiện nay.
Tổng Tân Hương là nơi hội tụ của các làng người Kinh lên lập
nghiệp tại Kon Tum. Theo thứ tự, các làng của tổng Tân Hương
được thành lập theo thời gian và tên gọi như sau: Tân Hương (năm
1874); Phương Nghĩa (năm 1882); Phương Quý (năm 1887); Phương Hòa
(năm 1892); Trung Lương (năm 1914); Phụng Sơn (năm 1924); Ngô Thạnh
(năm 1925); Ngô Trang (năm 1925); Phước Cần (năm 1927); Lương Khế
(năm1927).
Ngày
3-2-1929, theo nghị định của Khâm sứ Trung Kỳ, tổng Tân Hương
được lập thành thị trấn Kon Tum, từ đó thị trấn Kon Tum trở
thành trung tâm chính trị - kinh tế - xã hội của tỉnh Kon Tum.
Theo thời gian, mảnh đất nơi đây không ngừng được mở rộng và
phát triển. Ngoài các làng của người Kinh lập nên, về sau có
thêm nhiều làng của người dân tộc thiểu số vùng ven như các
làng Kon Rbàng, KonM'nai, ChưHreng, cũng nằm trong phạm vi quản
lý hành chính của thị trấn Kon Tum.
Tháng
8-1945, cùng với cả nước, ngày 25-8-1945, nhân dân Kon Tum đã
nổi dậy giành chính quyền. Chính quyền cách mạng tổ chức lại
tỉnh Kon Tum thành 4 đơn vị hành chính gồm các huyện Đăk Glei,
Đăk Tô, Konplong và thành phố Kon Tum. Chính quyền cách mạng lâm
thời tỉnh Kon Tum được thành lập đóng trụ sở tại thành phố Kon
Tum để lãnh đạo nhân dân bắt tay vào xây dựng cuộc sống mới.
Ngày
26-6-1946, thực dân Pháp tấn công và chiếm lại Kon Tum, thiết
lập trở lại bộ máy cai trị vùng này. So với trước Cách mạng
Tháng Tám năm 1945, bộ máy thống trị và chính sách cai trị
của Pháp từ tỉnh tới làng không mấy thay đổi. Đứng đầu bộ
máy hành chính cấp tỉnh là một công sứ người Pháp, bên dưới
có các huyện thường do tên đồn trưởng người Pháp nắm giữ rồi
đến làng. Thực dân Pháp đã tập hợp bọn tay sai người địa
phương, đặc biệt là dụ dỗ, mua chuộc, lôi kéo các chủ làng để
nắm giữ bộ máy quyền lực ở cơ sở.
Về
phía cách mạng, sau khi thực dân Pháp tái chiếm Kon Tum, chính
quyền cách mạng lâm thời tan rã, tổ chức Đảng bị phân tán,
thất lạc. Trong thời gian này, tỉnh Kon Tum chịu sự quản lý
chỉ đạo về hành chính của xứ ủy Trung Kỳ và Phân ban vận
động quốc dân thiểu số Nam Trung Bộ.
Tháng
1-1947, thành lập Phân khu 15, trong đó nòng cốt là tỉnh Kon Tum
và các huyện miền Tây của hai tỉnh Quảng Nam và Quảng Ngãi.
Trên thực tế, tổ chức hành chính của Kon Tum vẫn giữ nguyên,
nhưng chịu sự quản lý và chi phối của Phân khu 15 về hoạt động
quân sự. Tháng 8-1947, Khu 15 Tây Nguyên được thành lập, tỉnh Kon
Tum là một trong những đơn vị hành chính trực thuộc Khu 15.
Tháng 3-1950, theo chủ trương của Liên Khu ủy V, tỉnh Kon Tum và
tỉnh Gia Lai được sáp nhập thành tỉnh Gia - Kon. Ban cán sự Gia -
Kon ra quyết định thành lập 7 khu (huyện). Địa bàn tỉnh Kon Tum
tổ chức thành 3 khu: khu 1 (Đăk Glei); khu 2 (Đăk Tô); khu 3
(Konplong).
Tháng
10-1951, theo quyết định của Liên Khu uỷ V, tỉnh Kon Tum và các
huyện phía tây Quảng Ngãi hợp nhất thành Mặt trận miền Tây.
Tháng
2-1954, Kon Tum là tỉnh đầu tiên và duy nhất ở Tây Nguyên được
hoàn toàn giải phóng. Một thời gian sau, Mặt trận miền Tây
cũng được giải thể. Theo tinh thần Hiệp định Giơnevơ ký ngày
20-7-1954, tỉnh Kon Tum bước vào thời kỳ lịch sử mới.
Về
phía địch, sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, Mỹ - ngụy
tiếp quản Kon Tum. Năm 1958, chúng chia bộ máy hành chính tỉnh
Kon Tum thành tòa hành chính Kon Tum - bộ máy hành chính cấp
tỉnh, bên dưới gồm các quận Kon Tum, Đăk Tô, Konplong và Đăk Sút.
Năm
1958, nguỵ quyền thành lập quận Toumơrông. Năm 1959, nguỵ quyền
thành lập thêm quận Chương Nghĩa. Năm 1960, quận Konplong bị xóa
bỏ. Như vậy, thực tế quận Toumơrông và quận Chương Nghĩa chiếm
gần trọn diện tích của quận Konplong trước đó. Một phần đất
còn lại của quận Konplong không thuộc phạm vi của hai quận mới
này được sáp nhập về quận Kon Tum.
Năm
1961, quận Chương Nghĩa bao gồm phần đất phía đông sông Đăk
Nghé, giáp với Ba Tơ (Quảng Ngãi) được cắt về tỉnh Quảng
Ngãi. Tỉnh Kon Tum còn lại 4 đơn vị hành chính cấp quận: Kon
Tum, Đăk Tô, Đăk Sút, Toumơrông.
Sau
năm 1965, phân cấp hành chính của Nguỵ quyền Sài Gòn tại Kon
Tum có sự thay đổi. Đối với khu vực thị xã, thị trấn đông dân,
chúng vẫn giữ nguyên cấp quận; những nơi xa xôi, ít dân cư hơn,
chúng giảm quận đặt thành phái viên hành chính.
Năm
1970, bộ máy hành chính của địch ngoài tòa hành chính và
các ty, sở ở tỉnh, bên dưới có các cấp sau: quận Kon Tum, quận
Đăk Tô, phái viên hành chính Đăk Sút, phái viên hành chính Măng
Buk, phái viên hành chính Chương Nghĩa (quận Chương Nghĩa chuyển
về Quảng Ngãi một thời gian sau đó được nhập trở lại tỉnh Kon
Tum).
Năm 1972, nguỵ quyền cải danh chi khu Đăk Pét thành quận Đăk Sút để mở rộng chức năng về hành chính.
Sau
chiến dịch xuân - hè năm 1972, quân cách mạng giải phóng Đăk Tô -
Tân Cảnh và đại bộ phận các vùng nông thôn, vùng kiểm soát
của địch bị thu hẹp đáng kể; quận lỵ Đăk Tô của địch phải lưu
vong về đèo Sao Mai (đông nam thành phố Kon Tum); các chi khu Đăk
Pét, Măng Đen, Măng Buk bị cô lập giữa vùng giải phóng của ta.
Địch chỉ còn co cụm phần lớn tại khu vực thành phố Kon Tum.
Năm
1974, quân ta tấn công tiêu diệt hoàn toàn các chi khu Đăk Pét,
Măng Đen, Măng Buk. Tận dụng thời cơ thắng lớn ở Buôn Ma Thuột,
ngày 17-3-1975, quân và dân trong tỉnh đã nổi dậy tấn công vào
đầu não của địch ở nội thị, giải phóng thành phố và toàn
tỉnh Kon Tum.
Về phía ta, đầu năm 1955, toàn tỉnh đuợc chia thành 6 khu nông thôn (tương đương huyện) và một thành phố.
Khu
1: lúc đầu là vùng đông và bắc thành phố Kon Tum, từ bờ sông Pô
Kô (phía tây) đến bờ sông Đăk Nghé (phía đông).
Khu 2: bao gồm toàn huyện Konplong ngày nay.
Khu
3: gồm một số vùng thuộc huyện Đăk Glei và một số vùng của
Đăk Tô (nay thuộc huyện Đăk Hà) giáp với khu 6 và giáp với
huyện Konplong ngày nay.
Khu 4: vùng tây huyện Đăk Glei từ giáp Quảng Nam đến Đăk Nây Pui, phía tây giáp biên giới Lào.
Khu
5: được hình thành và giải thể trước khi có hiệp định Giơnevơ
nên không còn. Một phần khu 5 nhập vào khu 4, phần còn lại
nhập vào khu 6.
Khu
6: từ Vơmơna, phía đông giáp Măng Buk đến vùng Kayong giáp biên
giới Lào, phía bắc giáp vùng Đăk Hà, phía nam đến Konplong.
Khu 7: thuộc huyện Sa Thầy ngày nay.
Cuối
năm 1956, đầu năm 1957, các khu vực được sắp xếp lại và chuyển
đổi thành huyện: cắt một phần khu 3 giáp khu 6 thành khu 8;
cắt một phần nam khu 2 thành khu 9; giải thể khu 6. Hình thành
nên các huyện: khu 1 và một phần khu 6 sáp nhập thành huyện
H16; khu 2 và khu 9 sáp nhập thành huyện H29; khu 3 chuyển thành
huyện H30; khu 8 và một phần khu 6 sáp nhập thành huyện H80; khu
4 thành huyện H40; khu 7 và một phần khu 6 sáp nhập thành
huyện H67.
Trong
thời kỳ kháng chiến chống đế quốc Mỹ, các huyện trong tỉnh
Kon Tum đều được gọi theo tên mật danh như: H16, H29, H30, H40, H67,
H80. Riêng thành phố Kon Tum lúc đó mang mật danh là H5. Vùng
KonHring (nay thuộc huyện Đăk Hà) mang mật danh H9.
ứng
với mỗi mật danh có tên gọi cụ thể là: H16 (Konpraih); H29
(Konplong); H80 (Đăk Tô); H5 (thành phố Kon Tum); H30 (phía đông Đăk
Glei); H40 (phía tây Đăk Glei); H67 (Sa Thầy); H9 (Kon Hring).
Sau
khi tỉnh Kon Tum được giải phóng (17-3-1975), toàn tỉnh có thành
phố Kon Tum và 6 huyện là H30, H40, H16, H29, H80, H67.
Tháng
10-1975, tỉnh Kon Tum sáp nhập với tỉnh Gia Lai thành tỉnh Gia
Lai - Kon Tum, trên địa bàn tỉnh có các huyện: huyện Konplong
(H16 + H29), huyện Đăk Glei (H30 + H40), thành phố Kon Tum (H5 + H9),
huyện Đăk Tô (H80). Năm 1979, thành lập huyện Sa Thầy trên cơ sở
phần đất của H67 cũ.
Tháng
10-1991, tỉnh Kon Tum được tái lập trên cơ sở chia tách tỉnh Gia
Lai - Kon Tum. Theo đó, một số huyện mới được thành lập như
Ngọc Hồi (năm 1992); Đăk Hà (năm 1994), huyện Kon Rẫy (năm 2002),
huyện Tu Mơ Rông (năm 2005).
Đến
năm 2005, tỉnh Kon Tum có 01 thành phố và 8 huyện. Trong đó, thành
phố Kon Tum là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội
của tỉnh.
(Theo tài liệu Kon Tum trên đường phát triển
Nằm
ở phía bắc Tây Nguyên, với vị thế địa - chính trị, địa - kinh
tế quan trọng, tài nguyên thiên nhiên phong phú, đa dạng, kết
cấu hạ tầng từng bước được nâng cấp đồng bộ, Kon Tum có khá
nhiều lợi thế để vươn lên thoát nghèo, phát triển kinh tế theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa . . .
Khảo
sát, phân tích và đánh giá một cách bao quát, toàn diện về
điều kiện tự nhiên và các đặc điểm kinh tế - xã hội là cơ sở
quan trọng để Kon Tum hoạch định chiến lược phát triển phù
hợp, khai thác hiệu quả những lợi thế, tiềm năng sẵn có, kết
hợp hài hòa giữa phát huy nội lực và thu hút ngoại lực, tạo
thành sức mạnh tổng hợp trong quá trình phát triển và hội
nhập.
Điều kiện tự nhiên
Vị
trí địa lý: Kon Tum là tỉnh miền núi vùng cao, biên giới, nằm
ở phía bắc Tây Nguyên trong toạ độ địa lý từ 107020'15" đến
108032'30" kinh độ đông và từ 13055'10" đến 15027'15" vĩ độ bắc.
Kon Tum có diện tích tự nhiên 9.676,5 km2,
chiếm 3,1% diện tích toàn quốc, phía bắc giáp tỉnh Quảng Nam
(chiều dài ranh giới 142 km); phía nam giáp tỉnh Gia Lai (203 km),
phía đông giáp Quảng Ngãi (74 km), phía tây giáp hai nước Lào
và Campuchia (có chung đường biên giới dài 280,7 km).
Địa
hình: phần lớn tỉnh Kon Tum nằm ở phía tây dãy Trường Sơn,
địa hình thấp dần từ bắc xuống nam và từ đông sang tây. Địa
hình của tỉnh Kon Tum khá đa dạng: đồi núi, cao nguyên và vùng
trũng xen kẽ nhau. Trong đó:
1)
Địa hình đồi, núi: chiếm khoảng 2/5 diện tích toàn tỉnh, bao
gồm những đồi núi liền dải có độ dốc 150 trở lên. Các núi ở
Kon Tum do cấu tạo bởi đá biến chất cổ nên có dạng khối như
khối Ngọc Linh (có đỉnh Ngọc Linh cao 2.598 m) - nơi bắt nguồn
của nhiều con sông chảy về Quảng Nam, Đà Nẵng như sông Thu Bồn
và sông Vu Gia; chảy về Quảng Ngãi như sông Trà Khúc. Địa hình
núi cao liền dải phân bố chủ yếu ở phía bắc - tây bắc chạy
sang phía đông tỉnh Kon Tum. Ngoài ra, Kon Tum còn có một số
ngọn núi như: ngọn Bon San (1.939 m); ngọn Ngọc Kring (2.066 m).
Mặt địa hình bị phân cắt hiểm trở, tạo thành các thung lũng
hẹp, khe, suối. Địa hình đồi tập trung chủ yếu ở huyện Sa
Thầy có dạng nghiêng về phía tây và thấp dần về phía tây nam,
xen giữa vùng đồi là dãy núi Chưmomray.
2)
Địa hình thung lũng: nằm dọc theo sông Pô Kô đi về phía nam của
tỉnh, có dạng lòng máng thấp dần về phía nam, theo thung lũng
có những đồi lượn sóng như Đăk Uy, Đăk Hà và có nhiều chỗ bề
mặt bằng phẳng như vùng thành phố Kon Tum. Thung lũng Sa Thầy
được hình thành giữa các dãy núi kéo dài về phía đông chạy
dọc biên giới Việt Nam - Campuchia.
3)
Địa hình cao nguyên: tỉnh Kon Tum có cao nguyên Konplong nằm giữa
dãy An Khê và dãy Ngọc Linh có độ cao 1.100 - 1.300 m, đây là
cao nguyên nhỏ, chạy theo hướng tây bắc - đông nam.
Khí
hậu: Kon Tum thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa cao nguyên.
Nhiệt độ trung bình trong năm dao động trong khoảng 22 - 230C, biên độ nhiệt độ dao động trong ngày 8 - 90C.
Kon
Tum có 2 mùa rõ rệt: mùa mưa chủ yếu bắt đầu từ tháng 4 đến
tháng 11, mùa khô từ tháng 12 đến tháng 3 năm sau. Hàng năm,
lượng mưa trung bình khoảng 2.121 mm, lượng mưa năm cao nhất 2.260
mm, năm thấp nhất 1.234 mm, tháng có lượng mưa cao nhất là tháng
8. Mùa khô, gió chủ yếu theo hướng đông bắc; mùa mưa, gió chủ
yếu theo hướng tây nam.
Độ
ẩm trung bình hàng năm dao động trong khoảng 78 - 87%. Độ ẩm
không khí tháng cao nhất là tháng 8 - 9 (khoảng 90%), tháng thấp
nhất là tháng 3 (khoảng 66%).
Khoáng
sản: Kon Tum nằm trên khối nâng Kon Tum, vì vậy rất đa dạng về
cấu trúc địa chất và khoáng sản. Trên địa bàn có 21 phân vị
địa tầng và 19 phức hệ mắc ma đã được các nhà địa chất
nghiên cứu xác lập, hàng loạt các loại hình khoáng sản như:
sắt, crôm, vàng, nguyên liệu chịu lửa, đá quý, bán quý, kim
loại phóng xạ, đất hiếm, nguyên liệu phục vụ sản xuất vật
liệu xây dựng,... đã được phát hiện. Nhiều vùng có triển vọng
khoáng sản đang được điều tra thành lập bản đồ địa chất tỷ
lệ 1/50.000, cùng với những công trình nghiên cứu chuyên đề
khác,... sẽ là cơ sở quan trọng trong công tác quy hoạch phát
triển kinh tế - xã hội của địa phương. Qua khảo sát của các cơ
quan chuyên môn, hiện nay, Kon Tum đang chú trọng đến một số
loại khoáng sản sau:
1)
Nhóm khoáng sản phục vụ sản xuất vật liệu xây dựng: nhóm
này rất đa dạng, bao gồm: sét (gạch ngói), cát xây dựng, cuội
sỏi, đá hoa, đá vôi, đá granít, puzơlan,....
2)
Nhóm khoáng sản vật liệu cách âm, cách nhiệt và xử lý môi
trường, bao gồm diatomit, bentonit, chủ yếu tập trung ở thành
phố Kon Tum.
3)
Nhóm khoáng sản vật liệu chịu lửa: gồm có silimanit, dolomit,
quazit tập trung chủ yếu ở các huyện Đăk Glei, Đăk Hà, Ngọc
Hồi.
4) Nhóm khoáng sản cháy: gồm có than bùn, tập trung chủ yếu ở thành phố Kon Tum, huyện Đăk Hà, huyện Đăk Tô.
5)
Nhóm khoáng sản kim loại đen, kim loại màu, kim loại hiếm: gồm
có măngan ở Đăk Hà; thiếc, molipden, vonfram, uran, thori, tập
trung chủ yếu ở Đăk Tô, Đăk Glei, Ngọc Hồi, Konplong; bauxit tập
trung chủ yếu ở Konplong.
6) Nhóm khoáng sản đá quý: gồm có rubi, saphia, opalcalcedon tập trung ở Đăk Tô, Konplong.
Tài nguyên đất của tỉnh Kon Tum được chia thành 5 nhóm với 17 loại đất chính:
1)
Nhóm đất phù sa: gồm ba loại đất chính là đất phù sa được
bồi, đất phù sa loang lổ, đất phù sa ngoài suối.
2) Nhóm đất xám: gồm hai loại đất chính là đất xám trên mácma axít và đất xám trên phù sa cổ.
3)
Nhóm đất vàng: gồm 6 loại chính là đất nâu vàng trên phù sa
cổ, đất đỏ vàng trên mácma axít, đất đỏ vàng trên đá sét và
biến chất, đất nâu đỏ trên đá bazan phong hoá, đất vàng nhạt
trên đá cát và đất nâu tím trên đá bazan.
4)
Nhóm đất mùn vàng trên núi: gồm 5 loại đất chính là đất mùn
vàng nhạt có nơi Potzon hoá, đất mùn vàng nhạt trên đá sét
và biến chất, đất mùn nâu đỏ trên mácma bazơ và trung tính,
đất mùn vàng đỏ trên mácma axít.
5) Nhóm đất thung lũng: chỉ có một loại đất chính là đất thung lũng có sản phẩm dốc tụ.
Tài nguyên nước:
1)
Nguồn nước mặt: chủ yếu là sông, suối bắt nguồn từ phía bắc
và đông bắc của tỉnh Kon Tum, thường có lòng dốc, thung lũng
hẹp, nước chảy xiết, bao gồm:
-
Sông Sê San: do 2 nhánh chính là Pô Kô và Đăkbla hợp thành.
Nhánh Pô Kô dài 121 km, bắt nguồn từ phía nam của khối núi
Ngọc Linh, chảy theo hướng bắc - nam. Nhánh này được cung cấp
từ suối ĐăkPsy dài 73 km, bắt nguồn phía nam núi Ngọc Linh từ
các xã Ngọc Lây, Măng Ri, huyện Đăk Tô. Nhánh Đăkbla dài 144 km
bắt nguồn từ dãy núi Ngọc Krinh.
-
Các sông, suối khác: phía đông bắc tỉnh là đầu nguồn của sông
Trà Khúc đổ về Quảng Ngãi và phía bắc của tỉnh là đầu
nguồn của 2 con sông Thu Bồn và Vu Gia chảy về Quảng Nam, Đà
Nẵng. Ngoài ra còn có sông Sa Thầy bắt nguồn từ đỉnh núi Ngọc
Rinh Rua, chảy theo hướng bắc - nam, gần như song song với biên
giới Campuchia, đổ vào dòng Sê San.
Nhìn
chung, chất lượng nước, thế năng,... của nguồn nước mặt thuận
lợi cho việc xây dựng các công trình thủy điện, thủy lợi.
2) Nguồn nước ngầm: nguồn nước ngầm ở tỉnh Kon Tum có tiềm năng và trữ lượng công nghiệp cấp C2: 100 nghìn m3/ngày,
đặc biệt ở độ sâu 60 - 300 m có trữ lượng tương đối lớn.
Ngoài ra, huyện Đăk Tô, Konplong còn có 9 điểm có nước khoáng
nóng, có khả năng khai thác, sử dụng làm nước giải khát và
chữa bệnh.
Rừng và tài nguyên rừng:
1)
Rừng: đến năm 2008, diện tích đất lâm nghiệp của Kon Tum là
660.341 ha, chiếm 68,14% diện tích tự nhiên. Kon Tum có các kiểu
rừng chính sau:
-
Rừng kín nhiệt đới hỗn hợp cây và lá rộng: đây là kiểu rừng
điển hình của rừng tỉnh Kon Tum, phân bố chủ yếu trên độ cao
500 m, có ở hầu hết huyện, thị trong tỉnh.
- Rừng lá ẩm nhiệt đới: có hầu hết trong tỉnh và thường phân bố ở ven sông.
- Rừng kín á nhiệt đới: phân bố ở vùng núi cao.
-
Rừng thưa khô cây họ dầu (rừng khộp): phân bố chủ yếu ở huyện
Ngọc Hồi, huyện Đăk Glei (dọc theo biên giới Việt Nam, Lào,
Campuchia).
2) Tài nguyên rừng:
-
Thực vật: theo kết quả điều tra bước đầu, tỉnh Kon Tum có
khoảng hơn 300 loài, thuộc hơn 180 chi và 75 họ thực vật có hoa.
Cây hạt trần có 12 loài, 5 chi, 4 họ; cây hạt kín có 305 loài,
175 chi, 71 họ; cây một lá mầm có 20 loài, 19 chi, 6 họ; cây 2
lá có mầm 285 loài, 156 chi, 65 họ. Trong đó, các họ nhiều
nhất là họ đậu, họ dầu, họ long não, họ thầu dầu, họ trinh
nữ, họ đào lộn hột, họ xoan và họ trám. Nhìn chung, thảm
thực vật ở Kon Tum đa dạng, thể hiện nhiều loại rừng khác nhau
trong nền cảnh chung của đới rừng nhiệt đới gió mùa, có 3 đai
cao, thấp khác nhau: 600 m trở xuống, 600 - 1.600 m và trên 1.600
m. Hiện nay, nổi trội nhất vẫn là rừng rậm, trong rừng rậm có
quần hợp chủ đạo là thông hai lá, dẻ, re, pơmu, đỗ quyên,
chua,... ở độ cao 1.500 - 1.800 m chủ yếu là thông ba lá, chua,
dẻ, re, kháo, chẹc,... Nhắc đến nguồn lợi rừng ở Kon Tum phải
kể đến vùng núi Ngọc Linh với những cây dược liệu quý như sâm
Ngọc Linh, đẳng sâm, hà thủ ô và quế. Trong những năm gần đây,
diện tích rừng của Kon Tum bị thu hẹp do chiến tranh, khai thác
gỗ lậu và các sản phẩm khác của rừng. Nhưng nhìn chung, Kon
Tum vẫn là tỉnh có nhiều rừng gỗ quý và có giá trị kinh tế
cao.
-
Động vật: rất phong phú, đa dạng, trong có nhiều loài hiếm,
bao gồm chim có 165 loài, 40 họ, 13 bộ, đủ hầu hết các loài
chim; thú có 88 loài, 26 họ, 10 bộ, chiếm 88% loài thú ở Tây
Nguyên. Đáng chú ý nhất là động vật ăn cỏ như: voi, bò rừng,
bò tót, trâu rừng, nai, hoẵng,... Trong đó, voi có nhiều ở vùng
tây nam Kon Tum (huyện Sa Thầy). Bò rừng có: bò tót (hay con
min) tên khoa học Bosgaurus thường xuất hiện ở các khu rừng
thuộc huyện Sa Thầy và Đăk Tô; bò Đen Teng tên khoa học
Bosjavanicus. Trong những năm gần đây, ở Sa Thầy, Đăk Tô, Konplong
đã xuất hiện hổ, đây là dấu hiệu đáng mừng về sự tồn tại
của loài thú quý này. Ngoài ra, rừng Kon Tum còn có gấu chó,
gấu ngựa, chó sói.
Bên
cạnh các loài thú, Kon Tum còn có nhiều loại chim quý cần
được bảo vệ như công, trĩ sao, gà lôi lông tía và gà lôi vằn.
Trong điều kiện rừng bị xâm hại, việc săn bắt trái phép ngày
một gia tăng, môi sinh luôn biến động đã ảnh hưởng đến sự sinh
tồn của các loài động vật, đặc biệt là các loài động vật
quý hiếm. Tỉnh Kon Tum đã quy hoạch xây dựng các khu rừng nguyên
sinh và đưa vào xếp hạng quốc gia để có kế hoạch khai thác,
nghiên cứu và bảo vệ, đồng thời đẩy mạnh công tác tuyên
truyền, giáo dục, nâng cao ý thức bảo vệ động, thực vật nói
riêng, môi trường sinh thái nói chung.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét